SN 35.132 – (35. 3. 3. 9) Lohicca:
Lohiccasuttaṃ (132) [KTƯ-04. Chương 35. Tương Ưng Sáu Xứ]
1. Một thời Tôn-giả Mahākaccāna trú ở giữa dân
chúng Avantī, tại
Makkarakaṭa, tại một chòi lá trong rừng.
2. Rồi một số đông đệ tử của Bà-la-môn Lohicca, là
những thanh niên lượm củi, đi đến chòi lá trong rừng của Tôn-giả Mahākaccāna;
sau khi đến, đi qua đi lại, đi vòng quanh chòi lá, cao tiếng, lớn tiếng, và làm
đủ loại trò chơi nghịch ngợm: "Những kẻ trọc đầu, Sa-môn giả hiệu, đê tiện, đen đủi,
sanh từ nơi chân này, lại được các kẻ nô tì khuân vác cung kính, tôn trọng,
cúng dường, lễ bái".
3. Rồi Tôn-giả Mahākaccāna từ trong nhà bước ra và
nói với các thanh niên ấy:
-
Này các thanh niên, chớ có làm ồn. Ta sẽ thuyết pháp cho các ông.
Khi nghe nói vậy, các thanh niên đều im lặng.
4. Rồi Tôn-giả Mahākaccāna nói lên những bài kệ với
các thanh niên ấy:
Những bậc cổ nhân xưa,
Tối thắng trong giới hạnh,
Các bậc Bà-la-môn,
Ghi nhớ các cổ luật,
Các căn được hộ trì,
Ðược khéo léo chế ngự,
Họ nhiếp phục, đoạn tận,
Mọi tức giận, phẫn nộ.
Họ hân hoan trong pháp,
Họ hân hoan trong Thiền,
Họ là Bà-la-môn,
Ghi nhớ các cổ luật,
Còn kẻ trốn luật này,
Chỉ lắp bắp tụng đọc,
Say mê trong giai cấp,
Họ bước đi khập khễnh.
Bị phẫn nộ nhiếp phục,
Dùng nhiều loại gậy gộc,
Họ rơi vào nguy hại,
Giữa kẻ tham, bậc Thánh,
Rỗng không là giới cấm,
Khi căn không chế ngự,
Như người được tài sản,
Trong cơn mộng nằm mơ.
Không ăn, quyết nhịn đói,
Nằm ngủ trên đất trần,
Sáng dậy, tắm sạch tội,
Tụng đọc ba Vệ-đà,
Mặc da thú thô cứng,
Bện tóc, da dính bùn,
Tụng đọc các thần chú,
Giới cấm thủ, khổ hạnh.
Giả dối và lừa đảo,
Sử dụng các gậy gộc,
Dùng nước để tắm rửa,
Dùng nước để súc miệng,
Ðó là những sắc tướng,
Các hàng Bà-la-môn,
Họ làm và thực hiện,
Mong hưởng những lợi nhỏ.
Nhứt tâm, khéo định tĩnh,
Trong sáng, không cấu uế,
Nhu thuận mọi chúng sanh,
Con đường đạt tối thượng.
5. Rồi các thanh niên ấy, tức giận và không vui, đi
đến Bà-la-môn Lohicca; sau khi đến, thưa với Bà-la-môn Lohicca:
- Mong Tôn-giả biết rằng, Sa-môn Mahākaccāna đang một
mạch chỉ trích và mạ lị thần chú của các Bà-la-môn.
Khi nghe nói vậy, Bà-la-môn Lohicca tức giận và không vui.
6. Rồi Bà-la-môn Lohicca suy nghĩ: "Thật
không thích đáng cho ta khi ta nghe một mình các thanh niên Bà-la-môn, rồi phỉ
báng và công kích Sa-môn Mahākaccāna. Vậy,
ta hãy đi đến và hỏi vị ấy".
7. Rồi Bà-la-môn Lohicca cùng với các thanh niên
Bà-la-môn ấy đi đến Tôn-giả Mahākaccāna; sau khi đến, nói lên những lời chào
đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên.
8. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Lohicca nói với
Tôn-giả Mahākaccāna:
- Tôn-giả Kaccāna, có phải có một số đông đệ tử của
chúng tôi, những thanh niên Bà-la-môn lượm củi đã đến đây?
- Này Bà-la-môn, một số đông đệ tử của ông, những
thanh niên Bà-la-môn lượm củi có đến tại đây.
- Thưa Tôn-giả Kaccāna, Tôn-giả có nói chuyện với
những thanh niên Bà-la-môn ấy không?
- Này Bà-la-môn, tôi có nói chuyện với những thanh
niên Bà-la-môn ấy.
- Như thế nào là câu chuyện giữa Tôn-giả Kaccāna với
những thanh niên Bà-la-môn ấy?
- Này Bà-la-môn, như thế này là câu chuyện giữa tôi
và các thanh niên Bà-la-môn ấy:
Những bậc cổ nhân xưa,
Tối thắng trong giới hạnh,
Các bậc Bà-la-môn,
Ghi nhớ các cổ luật,
Các căn được hộ trì,
Ðược khéo léo chế ngự,
Họ nhiếp phục, đoạn tận,
Mọi tức giận, phẫn nộ.
Họ hân hoan trong pháp,
Họ hân hoan trong Thiền,
Họ là Bà-la-môn,
Ghi nhớ các cổ luật,
Còn kẻ trốn luật này,
Chỉ lắp bắp tụng đọc,
Say mê trong giai cấp,
Họ bước đi khập khễnh.
Bị phẫn nộ nhiếp phục,
Dùng nhiều loại gậy gộc,
Họ rơi vào nguy hại,
Giữa kẻ tham, bậc Thánh,
Rỗng không là giới cấm,
Khi căn không chế ngự,
Như người được tài sản,
Trong cơn mộng nằm mơ.
Không ăn, quyết nhịn đói,
Nằm ngủ trên đất trần,
Sáng dậy, tắm sạch tội,
Tụng đọc ba Vệ-đà,
Mặc da thú thô cứng,
Bện tóc, da dính bùn,
Tụng đọc các thần chú,
Giới cấm thủ, khổ hạnh.
Giả dối và lừa đảo,
Sử dụng các gậy gộc,
Dùng nước để tắm rửa,
Dùng nước để súc miệng,
Ðó là những sắc tướng,
Các hàng Bà-la-môn,
Họ làm và thực hiện,
Mong hưởng những lợi nhỏ.
Nhứt tâm, khéo định tĩnh,
Trong sáng, không cấu uế,
Nhu thuận mọi chúng sanh,
Con đường đạt tối thượng.
Như vậy, này Bà-la-môn, là cuộc nói chuyện giữa tôi
và các thanh niên Bà-la-môn ấy.
9. -
Tôn-giả Kaccāna có nói đến hộ trì các
căn. Cho đến như thế nào, thưa Tôn-giả Kaccāna, là hộ trì các căn?
10. - Ở đây, này Bà-la-môn, có người sau khi mắt thấy sắc,
1)
có tâm hướng đến các sắc khả ái,
2)
có tâm ghét bỏ các sắc không khả ái,
3)
sống với niệm không an
trú, với tâm nhỏ hẹp.
4)
Người ấy không như thật
biết rõ tâm giải thoát và tuệ giải
thoát.
5)
Do vậy, các ác bất thiện
pháp đã khởi lên, không có đoạn diệt, không có dư tàn.
11. Có người
sau khi tai
nghe tiếng, có tâm hướng đến các tiếng khả ái, có tâm ghét bỏ
các tiếng không khả ái, sống với niệm không an trú, với tâm nhỏ hẹp. Người ấy
không như thật biết rõ tâm giải thoát và tuệ giải thoát. Do vậy, các ác bất thiện
pháp đã khởi lên, không có đoạn diệt, không có dư tàn.
12. Có người sau khi mũi ngửi
hương, có tâm hướng đến các hương khả ái, có tâm ghét bỏ các
hương không khả ái, sống với niệm không an trú, với tâm nhỏ hẹp. Người ấy không
như thật biết rõ tâm giải thoát và tuệ giải thoát. Do vậy, các ác bất thiện
pháp đã khởi lên, không có đoạn diệt, không có dư tàn.
13. Có người sau khi lưỡi nếm
vị, có tâm hướng đến các vị khả ái, có tâm ghét bỏ các vị
không khả ái, sống với niệm không an trú, với tâm nhỏ hẹp. Người ấy không như
thật biết rõ tâm giải thoát và tuệ giải thoát. Do vậy, các ác bất thiện pháp đã
khởi lên, không có đoạn diệt, không có dư tàn.
14. Có người sau khi thân cảm
xúc, có tâm hướng đến các xúc khả ái, có tâm ghét bỏ các xúc
không khả ái, sống với niệm không an trú, với tâm nhỏ hẹp. Người ấy không như
thật biết rõ tâm giải thoát và tuệ giải thoát. Do vậy, các ác bất thiện pháp đã
khởi lên, không có đoạn diệt, không có dư tàn.
15. Có người sau khi ý biết
pháp, có tâm hướng đến các pháp khả ái, có tâm ghét bỏ các
pháp không khả ái, sống với niệm không an trú, với tâm nhỏ hẹp. Người ấy không
như thật biết rõ tâm giải thoát và tuệ giải thoát. Do vậy, các ác bất thiện
pháp đã khởi lên, không có đoạn diệt, không có dư tàn.
16. Như vậy, này Bà-la-môn, là các
căn không được hộ trì.
17. - Thật là vi diệu, thưa Tôn-giả Kaccāna, thật
là hy hữu, thưa Tôn-giả Kaccāna, cách thức Tôn-giả Kaccāna đã định nghĩa các
căn không hộ trì.
Các
căn có hộ trì, các căn có hộ trì, Tôn-giả Kaccāna đã nói như vậy; cho đến như thế nào, thưa Tôn-giả Kaccāna,
là các căn có hộ trì?
18. - Ở đây, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo sau khi mắt thấy sắc,
1)
tâm không hướng đến các sắc khả ái,
2)
tâm không ghét bỏ các sắc không khả ái,
3)
sống với niệm an trú, với tâm vô lượng.
4)
Vị ấy như thật biết rõ tâm giải thoát và tuệ giải thoát.
5)
Do vậy, các ác bất thiện pháp đã khởi lên được đoạn diệt, không có dư tàn.
19. Ở đây, này
Bà-la-môn, Tỷ-kheo sau khi tai nghe tiếng, tâm không hướng đến
các tiếng khả ái, tâm không ghét bỏ các tiếng không khả ái, sống với niệm an
trú, với tâm vô lượng. Vị ấy như thật biết rõ tâm giải thoát và tuệ giải thoát.
Do vậy, các ác bất thiện pháp đã khởi lên được đoạn diệt, không có dư tàn.
20. Ở đây, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo sau khi mũi ngửi hương, tâm không hướng đến
các hương khả ái, tâm không ghét bỏ các hương không khả ái, sống với niệm an
trú, với tâm vô lượng. Vị ấy như thật biết rõ tâm giải thoát và tuệ giải thoát.
Do vậy, các ác bất thiện pháp đã khởi lên được đoạn diệt, không có dư tàn.
21. Ở đây, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo sau khi lưỡi nếm vị, tâm không hướng đến
các vị khả ái, tâm không ghét bỏ các vị không khả ái, sống với niệm an trú, với
tâm vô lượng. Vị ấy như thật biết rõ tâm giải thoát và tuệ giải thoát. Do vậy,
các ác bất thiện pháp đã khởi lên được đoạn diệt, không có dư tàn.
22. Ở đây, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo sau khi thân cảm xúc, tâm không hướng đến
các xúc khả ái, tâm không ghét bỏ các xúc không khả ái, sống với niệm an trú, với
tâm vô lượng. Vị ấy như thật biết rõ tâm giải thoát và tuệ giải thoát. Do vậy,
các ác bất thiện pháp đã khởi lên được đoạn diệt, không có dư tàn.
23. Ở đây, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo sau khi ý biết pháp, tâm không hướng đến
các pháp khả ái, tâm không ghét bỏ các pháp không khả ái, sống với niệm an trú,
với tâm vô lượng. Vị ấy như thật biết rõ tâm giải thoát và tuệ giải thoát. Do vậy,
các ác bất thiện pháp đã khởi lên được đoạn diệt, không có dư tàn.
24.
Như vậy, này Bà-la-môn, là các căn được
hộ trì.
25. - Thật là vi diệu, thưa
Tôn-giả Kaccāna, thật là hy hữu, thưa Tôn-giả Kaccāna, cách thức Tôn-giả
Kaccāna đã định nghĩa các căn được hộ trì.
Thật vi diệu thay, Tôn-giả
Kaccāna! Thật vi diệu thay, Tôn-giả Kaccāna! Thưa Tôn-giả Kaccāna, như người dựng
đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường
cho kẻ lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối, để cho những ai có mắt được
thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn-giả Kaccāna dùng nhiều
phương tiện trình bày, giải thích. Vậy nay, thưa Tôn-giả Kaccāna, con xin quy y Thế
Tôn, quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo. Tôn-giả Kaccāna hãy nhận con
làm đệ tử cư-sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con xin trọn đời quy ngưỡng.
Và như Tôn-giả Kaccāna đi đến
viếng các gia đình cư-sĩ, cũng vậy, cũng vậy, mong Tôn-giả Kaccāna hãy đến viếng
các gia đình Lohicca. Tại đấy, các thanh niên nam và các thanh niên nữ sẽ đảnh
lễ Tôn-giả Kaccāna, sẽ soạn chỗ ngồi, hay cúng dường nước cho Tôn-giả Kaccāna,
và như vậy, họ sẽ được hạnh phúc, an lạc trong một thời gian dài.
No comments:
Post a Comment