Tóm tắt Kinh MN 113 – Kinh Chân Nhân
|
Phi Chân nhân pháp
(khen mình
chê người)
|
Chân nhân pháp
(không khen
mình chê người)
|
1.
|
Ở đây, này
các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân
xuất gia từ một gia đình cao sang. Người ấy suy nghĩ như
sau:
"Ta
xuất gia từ một gia đình cao sang. Còn các Tỷ-kheo này không xuất gia từ một
gia đình cao sang".
Vì người ấy thuộc gia đình cao sang nên khen mình chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
|
Và này các
Tỷ-kheo, người Chân nhân suy
nghĩ như sau:
"Không phải vì thuộc một gia đình cao sang mà các
tham pháp đi đến đoạn trừ, hay các
sân pháp đi đến đoạn trừ, hay các
si pháp đi đến đoạn trừ.
Nếu một người xuất gia,
không phải từ một gia đình cao sang, và người ấy hành trì đúng pháp
và thuận pháp, hành trì chơn chánh, hành trì thuận pháp, thời ở đây,
người ấy được kính trọng, ở đây, người ấy được tán thán".
Người ấy, sau khi lấy đạo lộ (paṭipadām) làm Chánh yếu
(antaraṃ), không khen mình chê người
vì tự mình
thuộc vào gia đình cao sang. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân
nhân pháp.
|
2.
|
Vì người ấy thuộc gia đình lớn nên khen
mình chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân
pháp.
|
Người ấy, sau khi lấy đạo lộ làm Chánh yếu, không khen mình chê người vì tự mình thuộc
vào gia đình lớn. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
|
3.
|
Vì người ấy thuộc gia đình
đại phú nên khen mình chê người.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
|
Người ấy, sau
khi lấy đạo lộ làm Chánh yếu, không khen mình chê người vì tự mình thuộc vào gia đình đại phú. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
|
4.
|
Vì người ấy thuộc gia đình
quý phái, nên khen mình chê người.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
|
Người ấy, sau
khi lấy đạo lộ làm chính yếu, không khen mình chê người vì tự mình thuộc vào gia đình quý phái. Như
vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
|
5.
|
Vì người ấy tự mình được
nhiều người biết đến nên khen mình chê người.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
|
Người ấy, sau khi lấy đạo lộ làm chính yếu, không khen mình chê người vì tự mình được nhiều người biết và có danh xưng.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
|
6.
|
Vì người ấy
thâu nhận được các vật (cúng dường) như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa,
y liệu trị bệnh như vậy nên khen mình chê người.
Như vậy, này các Tỷ-kheo là phi Chân nhân pháp.
|
Người ấy, sau khi lấy đạo lộ làm Chánh yếu, không khen mình chê người, vì tự
mình được thâu nhận được các vật (cúng dường) như y phục, đồ ăn khất
thực, sàng tọa, y liệu trị bệnh như vậy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
|
7.
|
Người ấy do được nghe
nhiều nên khen mình chê người.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
|
Người ấy, sau
khi lấy đạo lộ làm Chánh yếu, không
khen mình chê người, vì tự mình được nghe nhiều. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
|
8.
|
Do tự mình trì
luật, người ấy khen mình chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
|
Người ấy sau
khi lấy đạo lộ làm Chánh yếu, không khen mình chê người vì tự mình là bậc trì luật. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp
|
9.
|
Vì tự mình là
người thuyết pháp, nên người ấy khen
mình chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân
pháp.
|
Người ấy, sau
khi lấy đạo lộ làm Chánh yếu, không khen mình chê
người vì tự mình là bậc thuyết pháp.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
|
10.
|
Người ấy vì tự mình theo hạnh sống ở rừng núi nên khen mình chê người. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
|
Người ấy, sau khi lấy đạo lộ làm Chánh yếu, không khen mình chê người, vì tự mình theo
hạnh sống ở rừng núi. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
|
11.
|
Người này do tự mình theo
hạnh mặc phấn tảo y nên khen mình chê người. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
|
Người ấy, sau khi lấy đạo lộ làm Chánh yếu, không khen mình chê người vì tự mình mặc phấn tảo
y. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
|
12.
|
Người ấy, do tự mình theo
hạnh khất thực nên khen mình chê người.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
|
Người ấy, sau
khi lấy đạo lộ làm Chánh yếu, không khen mình chê
người, vì tự mình theo hạnh khất thực. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
|
13.
|
Người ấy, do tự mình theo
hạnh sống dưới gốc cây nên khen mình chê người.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
|
Người ấy, sau
khi lấy đạo lộ làm Chánh yếu, không khen mình chê
người vì tự mình theo hạnh sống dưới gốc
cây. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
|
14.
|
Do tự mình theo hạnh
sống tại nghĩa địa nên khen mình chê người.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
|
Người ấy, sau
khi lấy đạo lộ làm Chánh yếu, không khen mình chê người vì tự mình sống tại nghĩa địa. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
|
15.
|
Do tự mình theo
hạnh sống ngoài trời nên khen mình chê người.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
|
Người ấy, sau khi lấy đạo lộ làm Chánh yếu, không khen mình chê người vì tự mình sống
ngoài trời. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
|
16.
|
Do tự mình theo
hạnh thường ngồi (không nằm) nên khen
mình chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân
pháp.
|
Người ấy, sau
khi lấy đạo lộ làm Chánh yếu, không khen mình chê
người vì tự mình thường ngồi (không nằm).
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
|
17.
|
Do tự mình theo
hạnh ngồi tại chỗ mời nên khen mình chê người.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
|
Người ấy, sau
khi lấy đạo lộ làm Chánh yếu, không khen mình chê
người vì tự mình ngồi tại chỗ mời. Như
vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
|
18.
|
Do tự mình theo
hạnh chỉ ăn một lần ngồi nên khen
mình chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
là phi Chân nhân pháp.
|
Người ấy, sau
khi lấy đạo lộ làm Chánh yếu, không khen mình chê
người vì tự mình sống chỉ ăn một lần ngồi. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
|
19.
|
Lại nữa, này
các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân ly dục, ly bất
thiện pháp, chứng và trú sơ Thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có
tầm có tứ.
Người ấy suy
nghĩ như sau: "Ta là người chứng được sơ Thiền, các người Tỷ-kheo này không chứng
được sơ Thiền".
Người ấy do tự mình
chứng được sơ Thiền nên khen mình chê người.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
|
Và người Chân nhân, này các Tỷ-kheo, suy
nghĩ như sau:
"Ðịnh sơ
Thiền, tự tánh là vô tham ái, Thế Tôn đã nói như vậy. Những ai nghĩ
thế này, thế khác, thời tự tánh liền đổi khác".
Người ấy sau
khi lấy vô tham ái làm Chánh yếu,
không khen mình chê người vì chứng được định
sơ Thiền. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
|
20.
|
Người ấy do tự mình
chứng được Thiền thứ hai nên khen
mình chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân
pháp.
|
Người ấy sau
khi lấy vô tham ái làm Chánh yếu, không khen mình chê
người vì chứng được định nhị Thiền.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
|
21.
|
Người ấy do tự mình chứng được Thiền thứ ba nên khen mình chê người. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
|
Người ấy sau
khi lấy vô tham ái làm Chánh yếu, không khen mình chê
người vì chứng được định tam Thiền.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
|
22.
|
Người ấy vì chứng đắc định
Thiền thứ tư ấy nên khen mình chê người.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
|
Người ấy sau
khi lấy vô tham ái làm Chánh yếu, không khen mình chê
người vì chứng đắc định tứ Thiền. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
|
23.
|
Người ấy, vì chứng được
định Không vô biên xứ ấy, nên khen
mình chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân
pháp.
|
Người ấy sau
khi lấy vô tham ái làm chính yếu, không khen mình chê
người vì chứng được định Không vô biên xứ. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
|
24.
|
Người ấy vì chứng được
định Thức vô biên xứ ấy nên khen
mình chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân
pháp.
|
Người ấy sau
khi lấy vô tham ái làm chính yếu, không khen mình chê
người vì chứng được định Thức vô biên xứ.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
|
25.
|
Người ấy, vì chứng được
định Vô sở hữu xứ ấy, nên khen mình chê người.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
|
Người ấy sau
khi lấy vô tham ái làm Chánh yếu, không khen mình chê
người vì chứng được định Vô sở hữu xứ. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
|
26.
|
Người ấy vì chứng được
định Phi tưởng phi phi tưởng xứ ấy nên khen
mình chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân
pháp.
|
Người ấy sau
khi lấy vô tham ái làm Chánh yếu,
không khen mình chê người vì định Phi tưởng
phi phi tưởng xứ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
|
27.
|
|
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người Chân nhân sau khi vượt lên Phi tưởng phi
phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt thọ
tưởng định, sau khi thấy với trí tuệ, các lậu hoặc của vị này được đoạn
trừ.
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo này không nghĩ
mình là bất cứ vật gì, không nghĩ đến bất cứ chỗ nào, không nghĩ đến bất cứ
vì sự việc gì.
|
MN 113 – Kinh Chân Nhân (Sappurisasutta)
1. Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Sāvatthī, Jetavana, tại tịnh-xá
ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc). Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các
Tỷ-kheo". - "Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp
Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
2. - Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ
giảng cho các ông Chân nhân pháp
và phi Chân nhân pháp. Các
ông hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn. - Các Tỷ-kheo ấy
vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn-giảng như sau:
3. - Này các Tỷ-kheo, thế nào là phi Chân
nhân pháp?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người phi Chân
nhân xuất gia từ một gia đình cao sang. Người ấy suy nghĩ như sau:
"Ta xuất gia từ một gia
đình cao sang. Còn các Tỷ-kheo này không xuất gia từ một gia đình cao
sang".
Vì người ấy thuộc gia đình cao sang nên khen mình chê người. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là
phi Chân nhân pháp.
Và này các
Tỷ-kheo, người Chân nhân suy nghĩ
như sau:
"Không phải vì thuộc một gia đình cao sang mà các
tham pháp đi đến đoạn trừ, hay các
sân pháp đi đến đoạn trừ, hay các
si pháp đi đến đoạn trừ.
Nếu một người xuất gia, không
phải từ một gia đình cao sang, và người ấy hành trì đúng pháp và thuận
pháp, hành trì chơn chánh, hành trì thuận pháp, thời ở đây, người ấy được
kính trọng, ở đây, người ấy được tán thán".
Người ấy, sau
khi lấy đạo lộ (paṭipadām) làm Chánh yếu
(antaraṃ), không khen mình chê người
vì tự mình thuộc vào gia đình cao sang. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân
pháp.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, một người phi Chân
nhân xuất gia từ một gia đình lớn. Người ấy suy nghĩ như sau:
"Ta xuất gia từ một gia đình lớn.
Còn các Tỷ-kheo này không xuất gia từ một gia đình lớn".
Vì người ấy thuộc gia đình lớn nên khen
mình chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
Và này các
Tỷ-kheo, người Chân nhân suy nghĩ
như sau:
"Không phải vì thuộc
một gia đình lớn mà các tham pháp đi đến đoạn trừ, hay các sân pháp đi
đến đoạn trừ, hay các si pháp đi đến đoạn trừ.
Nếu một người xuất gia,
không phải từ một gia đình lớn, và người ấy hành trì đúng pháp và thuận pháp,
hành trì chơn chánh, hành trì thuận pháp, thời ở đây, người ấy được kính trọng,
ở đây, người ấy được tán thán".
Người ấy, sau khi lấy đạo
lộ (paṭipadām) làm Chánh yếu (antaraṃ), không khen mình chê người vì tự mình thuộc vào
gia đình lớn. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, một người phi Chân nhân xuất gia từ một gia đình đại phú.
Người ấy suy nghĩ như sau: "Ta
xuất gia từ một gia đình đại phú. Còn các Tỷ-kheo này không xuất gia từ một gia
đình đại phú".
Vì người ấy thuộc gia đình đại phú nên khen mình chê người. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
Và này các
Tỷ-kheo, người Chân nhân suy nghĩ
như sau:
"Không phải vì thuộc
một gia đình đại phú mà các tham pháp đi đến đoạn trừ, hay các sân pháp
đi đến đoạn trừ, hay các si pháp đi đến đoạn trừ.
Nếu một người xuất gia,
không phải từ một gia đình đại phú, và người ấy hành trì đúng pháp và thuận
pháp, hành trì chơn chánh, hành trì thuận pháp, thời ở đây, người ấy được kính
trọng, ở đây, người ấy được tán thán".
Người ấy, sau
khi lấy đạo lộ (paṭipadām) làm Chánh yếu (antaraṃ), không
khen mình chê người vì tự mình thuộc vào gia
đình đại phú. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, một người phi Chân nhân xuất gia từ một gia đình quý phái.
Người ấy suy nghĩ như sau: "Ta
xuất gia từ một gia đình quý phái, còn các Tỷ-kheo này không xuất gia từ một
gia đình quý phái".
Vì người ấy thuộc gia đình quý phái, nên khen mình chê người. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
Và này các
Tỷ-kheo, người Chân nhân suy nghĩ như sau:
"Không phải vì thuộc
về một gia đình quý phái mà các tham pháp đi đến đoạn trừ, hay các sân
pháp đi đến đoạn trừ, hay các si pháp đi đến đoạn trừ.
Nếu một người xuất gia
không phải từ một gia đình quý phái và người ấy hành trì đúng pháp và thuận
pháp, hành trì chơn chánh, hành trì thuận pháp, thời ở đây, người ấy được kính
trọng, ở đây, người ấy được tán thán".
Người ấy, sau
khi lấy đạo lộ làm chính yếu, không khen mình chê người vì tự mình thuộc vào gia đình quý phái. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
7. Lại nữa, này
các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân được nhiều người
biết, có danh xưng.
Người ấy suy
nghĩ như sau: "Ta được nhiều người
biết, có danh xưng, còn các Tỷ-kheo này được ít người biết đến, không được
trọng vọng".
Vì người ấy tự mình được
nhiều người biết đến nên khen mình chê người.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
Và này các
Tỷ-kheo, người Chân Nhân suy nghĩ
như sau:
"Không phải vì mình được
nhiều người biết đến mà các tham pháp đi đến đoạn trừ, hay sân pháp đi đến
đoạn trừ, hay các si pháp đi đến đoạn trừ.
Nếu một người xuất gia
không được nhiều người biết, không có danh xưng, và người ấy hành trì đúng pháp
và thuận pháp, hành trì chơn chánh, hành trì thuận pháp, thời ở đây, người ấy
được kính trọng, ở đây, người ấy được tán thán".
Người ấy, sau
khi lấy đạo lộ làm chính yếu, không khen mình chê người vì tự mình được nhiều người biết và có danh xưng.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
8. Lại nữa, này
các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân được các vật
(cúng dường) như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, y liệu trị bệnh.
Người ấy suy
nghĩ như sau:
"Ta nhận
được các vật (cúng dường) như y phục, các đồ ăn khất thực, sàng tọa, y liệu trị
bệnh, còn các Tỷ-kheo này không nhận được y phục, các đồ ăn khất thực, sàng
tọa, y liệu trị bệnh".
Vì người ấy thâu nhận được như vậy nên khen mình chê người.
Như vậy, này các Tỷ-kheo là phi Chân nhân pháp.
Và này các Tỷ-kheo, người Chân nhân suy nghĩ như sau:
"Không
phải vì tự mình nhận được các vật (cúng dường như) y phục, các đồ ăn khất
thực, sàng tọa, y liệu trị bịnh mà các tham pháp đi đến đoạn trừ, hay các
sân pháp đi đến đoạn trừ, hay các si pháp đi đến đoạn trừ.
Nếu
một người xuất gia không nhận được các vật (cúng dường như) y phục, các đồ ăn
khất thực, sàng tọa, y liệu trị bệnh và người ấy hành trì đúng pháp và thuận pháp
hành, trì chơn chánh, hành trì thuận pháp, thời ở đây, người ấy được kính
trọng, ở đây, người ấy được tán thán".
Người ấy, sau khi lấy đạo lộ làm Chánh yếu, không khen mình chê người, vì tự mình được thâu
nhận như vậy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
9. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có người phi Chân
nhân là người nghe nhiều.
Người ấy suy nghĩ như sau: "Ta là người nghe nhiều, còn các Tỷ-kheo
này không nghe nhiều".
Người ấy do
được nghe nhiều nên khen mình chê người.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
Và này các
Tỷ-kheo, người Chân nhân suy nghĩ
như sau:
"Không phải vì
nghe nhiều mà các tham pháp đi đến đoạn trừ, hay các sân pháp đi
đến đoạn trừ, hay các si pháp đi đến đoạn trừ.
Nếu có người
không nghe nhiều và người ấy hành trì đúng pháp và thuận pháp, hành trì chơn
chánh, hành trì thuận pháp, thời ở đây, người ấy được kính trọng, ở đây, người
ấy được tán thán".
Người ấy, sau
khi lấy đạo lộ làm Chánh yếu, không
khen mình chê người, vì tự mình được nghe nhiều. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
10. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có người phi Chân
nhân là bậc trì luật.
Người ấy suy nghĩ như sau: "Ta
là bậc trì luật, còn các Tỷ-kheo này không là bậc trì luật".
Do tự mình
trì luật, người ấy khen mình chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
Và này các
Tỷ-kheo, người Chân nhân suy nghĩ
như sau:
"Không
phải vì tự mình là bậc trì luật mà các tham pháp đi đến đoạn trừ hay
các sân pháp đi đến đoạn trừ hay các si pháp đi đến đoạn trừ.
Nếu có người không phải là bậc trì
luật, những người này hành trì đúng pháp và thuận pháp, hành trì chơn chánh,
hành trì thuận pháp, thời ở đây, người ấy được kính trọng, ở đây, người ấy được
tán thán".
Người ấy sau
khi lấy đạo lộ làm Chánh yếu, không khen mình chê người vì tự mình là bậc trì luật. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
11. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân là người thuyết pháp.
Người ấy suy nghĩ như sau: "Ta
là người thuyết pháp, còn các Tỷ-kheo này không phải là người thuyết
pháp".
Vì tự mình
là người thuyết pháp, nên người ấy khen
mình chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
Và người Chân nhân, này các Tỷ-kheo suy nghĩ
như sau:
"Không phải do tự
mình là bậc thuyết pháp mà các tham pháp đi đến đoạn trừ, hay các sân pháp
đi đến đoạn trừ, hay các si pháp đi đến đoạn trừ.
Nếu một người không phải
là người thuyết pháp, nhưng hành trì đúng pháp, và thuận pháp, hành trì chơn
chánh, hành trì thuận pháp, thời ở đây người ấy được kính trọng, ở đây, người
ấy được tán thán".
Người ấy, sau
khi lấy đạo lộ làm Chánh yếu, không khen mình chê
người vì tự mình là bậc thuyết pháp.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
12. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có người phi Chân
nhân là người theo hạnh sống ở núi rừng.
Người ấy suy nghĩ như sau: "Ta
là người theo hạnh sống ở rừng núi, còn các Tỷ-kheo này không theo hạnh sống ở
rừng núi".
Người ấy vì tự mình theo hạnh sống ở rừng núi nên khen mình chê người. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
Và người Chân nhân, này các Tỷ-kheo, suy nghĩ
như sau:
"Không phải vì tự
mình theo hạnh sống ở rừng núi mà các tham pháp đi đến đoạn trừ, hay các
sân pháp đi đến đoạn trừ, hay các si pháp đi đến đoạn trừ.
Nếu một người không theo
hạnh sống ở rừng núi, nhưng hành trì đúng pháp và thuận pháp, hành trì chơn
chánh, hành trì thuận pháp, thời ở đây, người ấy được kính trọng, ở đây, người
ấy được tán thán".
Người ấy, sau
khi lấy đạo lộ làm Chánh yếu, không khen mình chê
người, vì tự mình theo hạnh sống ở rừng núi. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
13. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có người phi Chân
nhân theo hạnh mặc phấn tảo y.
Người ấy suy nghĩ như sau: "Ta là người theo hạnh mặc phấn tảo y. Còn các
Tỷ-kheo này không là người theo hạnh mặc phấn tảo y".
Người này do
tự mình theo hạnh mặc phấn tảo y nên khen
mình chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
Và người Chân nhân, này các Tỷ-kheo, suy nghĩ như sau:
"Không phải vì tự mình theo
hạnh mặc phấn tảo y mà các tham pháp đi đến đoạn trừ, hay các sân pháp đi đến
đoạn trừ, hay các si pháp đi đến đoạn trừ.
Nếu
một người không theo hạnh mặc phấn tảo y, nhưng người ấy hành trì đúng pháp và
thuận pháp, hành trì chơn chánh, hành trì thuận pháp, thời ở đây, người ấy được
kính trọng, ở đây, người ấy được tán thán".
Người ấy, sau khi lấy đạo lộ làm Chánh yếu, không khen mình chê người vì tự mình mặc phấn tảo y. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
14. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có người phi Chân
nhân là người theo hạnh khất thực.
Người ấy suy nghĩ như sau: "Ta theo hạnh khất thực, còn các Tỷ-kheo này không theo
hạnh khất thực".
Người ấy, do
tự mình theo hạnh khất thực nên khen mình chê người.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
Và người Chân nhân, này các Tỷ-kheo, suy nghĩ
như sau:
"Không phải vì tự
mình theo hạnh khất thực mà các tham pháp đi đến đoạn trừ, hay các sân pháp
đi đến đoạn trừ, hay các si pháp đi đến đoạn trừ.
Nếu một người không theo
hạnh khất thực, nhưng người ấy hành trì đúng pháp và thuận pháp, hành trì chơn
chánh, hành trì thuận pháp, thời ở đây, người ấy được kính trọng, ở đây, người
ấy được tán thán".
Người ấy, sau
khi lấy đạo lộ làm Chánh yếu, không khen mình chê
người, vì tự mình theo hạnh khất thực. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
15. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, một người phi Chân
nhân theo hạnh sống dưới gốc cây.
Người ấy suy nghĩ như sau: "Ta
là người theo hạnh sống dưới gốc cây, còn các Tỷ-kheo này không theo hạnh sống
dưới gốc cây".
Người ấy, do
tự mình theo hạnh sống dưới gốc cây nên khen
mình chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
Và người Chân nhân, này các Tỷ-kheo, suy nghĩ
như sau:
"Không phải vì tự
mình theo hạnh sống dưới gốc cây mà các tham pháp đi đến đoạn trừ, hay các
sân pháp đi đến đoạn trừ, hay các si pháp đi đến đoạn trừ.
Nếu một người không theo
hạnh sống dưới gốc cây, nhưng người ấy hành trì đúng pháp và thuận pháp, hành
trì chơn chánh và hành trì thuận pháp, thời ở đây, người ấy được kính trọng, ở
đây, người ấy được tán thán".
Người ấy, sau
khi lấy đạo lộ làm Chánh yếu, không khen mình chê
người vì tự mình theo hạnh sống dưới gốc
cây. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
16. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có người phi Chân
nhân theo hạnh sống tại nghĩa địa.
Người ấy suy nghĩ như sau: "Ta
theo hạnh sống tại nghĩa địa, còn các Tỷ-kheo này không theo hạnh sống tại
nghĩa địa’’.
Do tự mình
theo hạnh sống tại nghĩa địa nên khen mình chê người.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
Và người Chân nhân, này các Tỷ-kheo, suy nghĩ
như sau:
"Không phải vì
mình theo hạnh sống tại nghĩa địa mà các tham pháp đi đến đoạn trừ, hay các
sân pháp đi đến đoạn trừ, hay các si pháp đi đến đoạn trừ.
Nếu một người không theo
hạnh sống tại nghĩa địa, nhưng hành trì đúng pháp và thuận pháp, hành trì chơn
chánh, hành trì thuận pháp, thời ở đây, người ấy được kính trọng, ở đây, người
ấy được tán thán".
Người ấy, sau
khi lấy đạo lộ làm Chánh yếu, không khen mình chê người vì tự mình sống tại nghĩa địa. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
17. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có người phi Chân
nhân theo hạnh sống ngoài trời.
Người ấy suy nghĩ như sau: "Ta
theo hạnh sống ngoài trời, còn các Tỷ-kheo này không theo hạnh sống ngoài trời".
Do tự mình
theo hạnh sống ngoài trời nên khen
mình chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
Và người Chân nhân, này các Tỷ-kheo, suy nghĩ
như sau:
"Không phải vì
mình theo hạnh sống ngoài trời mà các tham pháp đi đến đoạn trừ, hay các
sân pháp đi đến đoạn trừ, hay các si pháp đi đến đoạn trừ.
Nếu một người không theo
hạnh sống ngoài trời, nhưng hành trì đúng pháp và thuận pháp, hành trì chơn
chánh, hành trì thuận pháp, thời ở đây, người ấy được kính trọng, ở đây, người
ấy được tán thán".
Người ấy, sau
khi lấy đạo lộ làm Chánh yếu, không khen mình chê
người vì tự mình sống ngoài trời. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
18. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có người phi Chân
nhân theo hạnh thường ngồi (không nằm).
Người ấy suy nghĩ như sau: "Ta
theo hạnh thường ngồi (không nằm), còn các Tỷ-kheo này không theo hạnh thường
ngồi (không nằm) ".
Do tự mình
theo hạnh thường ngồi (không nằm) nên khen
mình chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
Và người Chân nhân, này các Tỷ-kheo, suy nghĩ
như sau:
"Không phải vì
mình theo hạnh thường ngồi (không nằm) mà các tham pháp đi đến đoạn trừ,
hay các sân pháp đi đến đoạn trừ, hay các si pháp đi đến đoạn trừ.
Nếu một người không theo
hạnh thường ngồi (không nằm), nhưng hành trì đúng pháp và thuận pháp, hành trì
chơn chánh, hành trì thuận pháp, thời ở đây, người ấy được kính trọng, ở đây,
người ấy được tán thán".
Người ấy, sau
khi lấy đạo lộ làm Chánh yếu, không khen mình chê
người vì tự mình thường ngồi (không nằm).
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
19. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có người phi Chân
nhân theo hạnh ngồi tại chỗ mời.
Người ấy suy nghĩ như sau: "Ta
theo hạnh ngồi tại chỗ mời, còn các Tỷ-kheo này không theo hạnh ngồi tại chỗ
mời".
Do tự mình
theo hạnh ngồi tại chỗ mời nên khen
mình chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
Và người Chân nhân, này các Tỷ-kheo, suy nghĩ
như sau:
"Không phải vì
mình theo hạnh ngồi tại chỗ mời mà các tham pháp đi đến đoạn trừ, hay các
sân pháp đi đến đoạn trừ, hay các si pháp đi đến đoạn trừ.
Nếu một người không theo
hạnh ngồi tại chỗ mời, nhưng hành trì đúng pháp và thuận pháp, hành trì chơn
chánh, hành trì thuận pháp, thời ở đây, người ấy được kính trọng, ở đây, người
ấy được tán thán".
Người ấy, sau
khi lấy đạo lộ làm Chánh yếu, không khen mình chê
người vì tự mình ngồi tại chỗ mời. Như
vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
20. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có người phi Chân
nhân theo hạnh chỉ ăn một lần ngồi.
Người ấy suy nghĩ như sau: "Ta
theo hạnh chỉ ăn một lần ngồi, còn các Tỷ-kheo này không theo hạnh chỉ ăn một
lần ngồi".
Do tự mình
theo hạnh chỉ ăn một lần ngồi nên khen
mình chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
Và người Chân nhân, này các Tỷ-kheo, suy nghĩ
như sau:
"Không phải vì
mình theo hạnh chỉ ăn một lần ngồi mà các tham pháp đi đến đoạn trừ, hay
các sân pháp đi đến đoạn trừ, hay các si pháp đi đến đoạn trừ.
Nếu một người không theo
hạnh chỉ ăn một lần, nhưng hành trì đúng pháp và thuận pháp, hành trì chơn
chánh, hành trì thuận pháp, thời ở đây, người ấy được kính trọng, ở đây, người
ấy được tán thán".
Người ấy, sau
khi lấy đạo lộ làm Chánh yếu, không khen mình chê
người vì tự mình sống chỉ ăn một lần ngồi. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
21. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có người phi Chân
nhân ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú sơ Thiền, một trạng
thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ.
Người ấy suy nghĩ như sau: "Ta là người chứng được sơ Thiền, các người Tỷ-kheo này
không chứng được sơ Thiền".
Người ấy do
tự mình chứng được sơ Thiền nên khen
mình chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
Và người Chân nhân, này các Tỷ-kheo, suy nghĩ
như sau:
"Ðịnh sơ
Thiền, tự tánh là vô tham ái, Thế Tôn đã nói như vậy. Những ai nghĩ thế
này, thế khác, thời tự tánh liền đổi khác".
Người ấy sau
khi lấy vô tham ái làm Chánh yếu,
không khen mình chê người vì chứng được định
sơ Thiền. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
22. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có người phi Chân
nhân pháp diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ
lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhứt tâm.
Người ấy suy nghĩ như sau: "Ta là người chứng được Thiền thứ hai, các người Tỷ-kheo
này không chứng được Thiền thứ hai".
Người ấy do
tự mình chứng được Thiền thứ hai nên khen
mình chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
Và người Chân nhân, này các Tỷ-kheo, suy nghĩ
như sau:
"Ðịnh nhị Thiền, tự tánh là vô
tham ái, Thế Tôn đã nói như vậy. Những ai nghĩ thế này, thế khác, thời tự
tánh liền đổi khác".
Người ấy sau
khi lấy vô tham ái làm Chánh yếu, không khen mình chê
người vì chứng được định nhị Thiền.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
23. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân pháp ly hỷ trú xả,
Chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc
trú, chứng và an trú Thiền thứ ba.
Người ấy suy nghĩ như sau: "Ta
là người chứng được Thiền thứ ba, các người Tỷ-kheo này không chứng được Thiền
thứ ba".
Người ấy do tự mình chứng được Thiền thứ ba
nên khen mình chê người. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
Và người Chân nhân, này các Tỷ-kheo, suy nghĩ
như sau:
"Ðịnh tam Thiền, tự
tánh là vô tham ái, Thế Tôn đã nói như vậy. Những ai nghĩ thế này, thế khác,
thời tự tánh liền đổi khác".
Người ấy sau
khi lấy vô tham ái làm Chánh yếu, không khen mình chê
người vì chứng được định tam Thiền.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
24. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có người phi Chân
nhân pháp xả lạc và xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và an
trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh.
Người ấy suy nghĩ như sau: "Ta
chứng đắc định Thiền thứ tư, còn các Tỷ-kheo này không chứng đắc định Thiền thứ
tư".
Người ấy vì
chứng đắc định Thiền thứ tư ấy nên khen
mình chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
Và người Chân nhân, này các Tỷ-kheo, suy nghĩ
như sau: "Ðịnh tứ Thiền, tánh là vô
tham ái. Thế Tôn đã nói như vậy. Những ai nghĩ thế này, thế khác, thời tự tánh
liền đổi khác".
Người ấy sau
khi lấy vô tham ái làm Chánh yếu, không khen mình chê
người vì chứng đắc định tứ Thiền. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
25. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có người phi Chân
nhân vượt lên mọi sắc tưởng, diệt trừ mọi chướng ngại tưởng, không
tác ý đối với
dị tưởng, người ấy nghĩ rằng: "Hư không là vô biên", chứng và trú
Không vô biên xứ.
Người ấy suy nghĩ như sau: "Ta
chứng được định Không vô biên xứ, còn các Tỷ-kheo này không chứng được định
Không vô biên xứ".
Người ấy, vì
chứng được định Không vô biên xứ ấy, nên khen
mình chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
Và người Chân nhân, này các Tỷ-kheo, suy nghĩ
như sau:
"Ðịnh Không vô biên xứ, tự tánh là
vô tham ái. Thế Tôn đã nói như vậy. Những ai nghĩ như thế này, thế khác, thời
tự tánh liền đổi khác".
Người ấy sau
khi lấy vô tham ái làm chính yếu, không khen mình chê
người vì chứng được định Không vô biên xứ. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
26. Lại nữa,
này các Tỷ-kheo, có người phi Chân nhân, vượt lên Không vô
biên xứ, nghĩ rằng: "Thức là vô biên", chứng và trú Thức vô biên xứ.
Người ấy suy
nghĩ như sau: "Ta chứng được định
Thức vô biên xứ, còn các Tỷ-kheo này không chứng được định Thức vô biên
xứ".
Người ấy vì chứng được
định Thức vô biên xứ ấy nên khen mình chê người.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
Và người Chân nhân, này các Tỷ-kheo, suy nghĩ
như sau:
"Ðịnh Thức
vô biên xứ tự tánh là vô tham ái. Thế Tôn đã nói như vậy. Những ai nghĩ thế
này, thế khác, thời tự tánh liền đổi khác".
Người ấy sau
khi lấy vô tham ái làm chính yếu, không khen mình chê
người vì chứng được định Thức vô biên xứ.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
27. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có người phi Chân
nhân vượt lên một cách hoàn toàn Thức vô biên xứ, nghĩ rằng:
"Không có sở hữu", chứng và trú Vô sở hữu xứ.
Người ấy suy nghĩ như sau: "Ta
chứng được định Vô sở hữu xứ, còn các Tỷ-kheo này không chứng được định Vô sở
hữu xứ".
Người ấy, vì
chứng được định Vô sở hữu xứ ấy, nên khen
mình chê người. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
Và người Chân nhân, này các Tỷ-kheo, suy nghĩ
như sau:
"Ðịnh Vô sở hữu xứ tự tánh là vô
tham ái. Thế Tôn đã nói như vậy. Những ai nghĩ thế này, thế khác, thời tự tánh
liền đổi khác".
Người ấy sau
khi lấy vô tham ái làm Chánh yếu, không khen mình chê
người vì chứng được định Vô sở hữu xứ. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
28. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có người phi Chân
nhân vượt lên Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng
xứ.
Người ấy suy nghĩ như sau: "Ta
chứng được định Phi tưởng phi phi tưởng xứ, còn các Tỷ-kheo này không chứng
được định Phi tưởng phi phi tưởng xứ".
Người ấy vì
chứng được định Phi tưởng phi phi tưởng xứ ấy nên khen mình chê người. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là phi Chân nhân pháp.
Và người Chân nhân, này các Tỷ-kheo, suy nghĩ
như sau:
"Ðịnh Phi tưởng phi phi tưởng xứ
tự tánh là vô tham ái. Thế Tôn đã nói như vậy. Những ai nghĩ thế này, thế khác,
thời tự tánh liền đổi khác".
Người ấy sau
khi lấy vô tham ái làm Chánh yếu,
không khen mình chê người vì định Phi tưởng
phi phi tưởng xứ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Chân nhân pháp.
29. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người Chân nhân sau khi
vượt lên Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt thọ tưởng định, sau khi
thấy với trí tuệ, các lậu hoặc của vị này được đoạn trừ.
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo này không nghĩ mình là bất cứ vật
gì, không nghĩ đến bất cứ chỗ nào, không nghĩ đến bất cứ vì sự việc gì.
Thế Tôn thuyết
giảng như vậy. Các Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
No comments:
Post a Comment