SN 25.1 – SN 25.10 (KTƯ-03.
Chương 25. Tương Ưng Nhập)
SN 25.1 – Kinh Con Mắt: Cakkhusuttaṃ (KTƯ-03. C25. Tương Ưng Nhập)
1. Nhân duyên tại Sāvatthī.
2. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các
Tỷ-kheo". - "Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp
Thế Tôn.
3. Thế Tôn nói như sau:
- Này các Tỷ-kheo,
1)
mắt là vô
thường, biến hoại, đổi khác.
2)
Tai là vô thường, biến hoại, đổi khác.
3)
Mũi là vô thường, biến hoại, đổi khác.
4)
Lưỡi là vô thường, biến hoại, đổi khác.
5)
Thân là vô thường, biến hoại, đổi khác.
6)
Ý là vô thường, biến hoại, đổi khác.
4. - Này các Tỷ-kheo, ai có lòng tin, có tín giải đối với những
pháp này; vị ấy được gọi là Tùy tín hành,
đã nhập Chánh tánh, đã nhập Chân nhân địa, đã vượt phàm phu địa. Vị ấy không có
thể làm những hành động gì, do làm hành động ấy phải sanh vào địa ngục, bàng
sanh, ngạ quỷ; một vị không có thể mệnh
chung mà không chứng quả Dự lưu.
5. Với ai, này các Tỷ-kheo, kham nhẫn một ít Thiền quán, như vậy với
trí tuệ về những pháp này; vị ấy được gọi là Tùy
pháp hành, đã nhập Chánh tánh, đã nhập Chân nhân địa, đã vượt
phàm phu địa. Vị ấy không có thể làm những hành động gì, do làm hành động ấy,
phải sanh vào địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ; một vị không
có thể mệnh chung mà không chứng quả Dự lưu.
6. Với ai, này các Tỷ-kheo, đối
với những pháp này, biết
rõ như vậy, thấy như vậy, vị ấy được gọi là đã chứng Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc hướng đến
giác ngộ.
SN 25.2 – Kinh Sắc: Rūpasuttaṃ
1. Nhân duyên tại Sāvatthī.
2. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các
Tỷ-kheo". - "Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp
Thế Tôn.
3. Thế Tôn nói như sau:
- Này các Tỷ-kheo,
1)
các sắc là vô
thường, biến hoại, đổi khác.
2)
Các tiếng là vô thường, biến hoại, đổi khác.
3)
Các hương là vô thường, biến hoại, đổi khác.
4)
Các vị là vô thường, biến hoại, đổi khác.
5)
Các xúc là vô thường, biến hoại, đổi khác.
6)
Các pháp là vô thường, biến hoại, đổi khác.
4. - Này các Tỷ-kheo, ai có
lòng tin, có tín giải đối với những pháp này; vị ấy được gọi
là Tùy tín hành, đã nhập Chánh tánh, đã nhập
Chân nhân địa, đã vượt phàm phu địa. Vị ấy không có thể làm những hành động gì,
do làm hành động ấy phải sanh vào địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ; một vị không có
thể mệnh chung mà không chứng quả Dự lưu.
5. Với ai, này các Tỷ-kheo, kham
nhẫn một ít Thiền quán, như vậy với trí tuệ về những pháp
này; vị ấy được gọi là Tùy pháp hành,
đã nhập Chánh tánh, đã nhập Chân nhân địa, đã vượt phàm phu địa. Vị ấy không có
thể làm những hành động gì, do làm hành động ấy, phải sanh vào địa ngục, bàng
sanh, ngạ quỷ; một vị không có thể mệnh chung mà không chứng quả Dự lưu.
6. Với ai, này các Tỷ-kheo, đối
với những pháp này, biết rõ như vậy,
thấy như vậy, vị ấy được gọi là đã chứng Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc hướng đến
giác ngộ.
SN 25.3 – Kinh Thức: Viññāṇasuttaṃ
1. Nhân duyên tại Sāvatthī.
2. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các
Tỷ-kheo". - "Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp
Thế Tôn.
3. Thế Tôn nói như sau:
- Này các Tỷ-kheo,
1)
nhãn thức là vô thường, biến hoại, đổi khác.
2)
Nhĩ thức là vô thường, biến hoại, đổi khác.
3)
Tỷ thức là vô thường, biến hoại, đổi khác.
4)
Thiệt thức là vô thường, biến hoại, đổi khác.
5)
Thân thức là vô thường, biến hoại, đổi khác.
6)
Ý thức là vô thường, biến hoại, đổi khác.
4. - Này các Tỷ-kheo, ai có
lòng tin, có tín giải đối với những pháp này; vị ấy được gọi
là Tùy tín hành, đã nhập Chánh tánh, đã nhập
Chân nhân địa, đã vượt phàm phu địa. Vị ấy không có thể làm những hành động gì,
do làm hành động ấy phải sanh vào địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ; một vị không có
thể mệnh chung mà không chứng quả Dự lưu.
5. Với ai, này các Tỷ-kheo, kham
nhẫn một ít Thiền quán, như vậy với trí tuệ về những pháp
này; vị ấy được gọi là Tùy pháp hành,
đã nhập Chánh tánh, đã nhập Chân nhân địa, đã vượt phàm phu địa. Vị ấy không có
thể làm những hành động gì, do làm hành động ấy, phải sanh vào địa ngục, bàng
sanh, ngạ quỷ; một vị không có thể mệnh chung mà không chứng quả Dự lưu.
6. Với ai, này các Tỷ-kheo, đối
với những pháp này, biết rõ như vậy,
thấy như vậy, vị ấy được gọi là đã chứng Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc hướng đến
giác ngộ.
SN 25.4 – Kinh Xúc: Samphassasuttaṃ
1. Nhân duyên tại Sāvatthī.
2. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các
Tỷ-kheo". - "Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp
Thế Tôn.
3. Thế Tôn nói như sau:
- Này các Tỷ-kheo,
1)
nhãn xúc là vô thường, biến hoại, đổi khác.
2)
Nhĩ xúc là vô thường, biến hoại, đổi khác.
3)
Tỷ xúc là vô thường, biến hoại, đổi khác.
4)
Thiệt xúc là vô thường, biến hoại, đổi khác.
5)
Thân xúc là vô thường, biến hoại, đổi khác.
6)
Ý xúc là vô thường, biến hoại, đổi khác.
4. - Này các Tỷ-kheo, ai có
lòng tin, có tín giải đối với những pháp này; vị ấy được gọi
là Tùy tín hành, đã nhập Chánh tánh, đã nhập
Chân nhân địa, đã vượt phàm phu địa. Vị ấy không có thể làm những hành động gì,
do làm hành động ấy phải sanh vào địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ; một vị không có
thể mệnh chung mà không chứng quả Dự lưu.
5. Với ai, này các Tỷ-kheo, kham
nhẫn một ít Thiền quán, như vậy với trí tuệ về những pháp
này; vị ấy được gọi là Tùy pháp hành,
đã nhập Chánh tánh, đã nhập Chân nhân địa, đã vượt phàm phu địa. Vị ấy không có
thể làm những hành động gì, do làm hành động ấy, phải sanh vào địa ngục, bàng
sanh, ngạ quỷ; một vị không có thể mệnh chung mà không chứng quả Dự lưu.
6. Với ai, này các Tỷ-kheo, đối
với những pháp này, biết rõ như vậy,
thấy như vậy, vị ấy được gọi là đã chứng Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc hướng đến
giác ngộ.
SN 25.5 – Kinh Thọ: Vedanāsuttaṃ
1. Nhân duyên tại Sāvatthī.
2. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các
Tỷ-kheo". - "Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp
Thế Tôn.
3. Thế Tôn nói như sau:
- Này các Tỷ-kheo,
1)
thọ do nhãn xúc
sanh là vô thường, biến
hoại, đổi khác.
2)
Thọ do nhĩ xúc
sanh là vô thường, biến hoại, đổi khác.
3)
Thọ do tỷ xúc
sanh là vô thường, biến hoại, đổi khác.
4)
Thọ do thiệt xúc
sanh là vô thường, biến hoại, đổi khác.
5)
Thọ do thân xúc
sanh là vô thường, biến hoại, đổi khác.
6)
Thọ do ý xúc sanh là vô thường, biến hoại, đổi khác.
4. - Này các Tỷ-kheo, ai có
lòng tin, có tín giải đối với những pháp này; vị ấy được gọi
là Tùy tín hành, đã nhập Chánh tánh, đã nhập
Chân nhân địa, đã vượt phàm phu địa. Vị ấy không có thể làm những hành động gì,
do làm hành động ấy phải sanh vào địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ; một vị không có
thể mệnh chung mà không chứng quả Dự lưu.
5. Với ai, này các Tỷ-kheo, kham
nhẫn một ít Thiền quán, như vậy với trí tuệ về những pháp
này; vị ấy được gọi là Tùy pháp hành,
đã nhập Chánh tánh, đã nhập Chân nhân địa, đã vượt phàm phu địa. Vị ấy không có
thể làm những hành động gì, do làm hành động ấy, phải sanh vào địa ngục, bàng
sanh, ngạ quỷ; một vị không có thể mệnh chung mà không chứng quả Dự lưu.
6. Với ai, này các Tỷ-kheo, đối
với những pháp này, biết rõ như vậy,
thấy như vậy, vị ấy
được gọi là đã chứng Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc hướng đến
giác ngộ.
SN 25.6 – Kinh Tưởng: Saññāsuttaṃ
1. Nhân duyên tại Sāvatthī.
2. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các
Tỷ-kheo". - "Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp
Thế Tôn.
3. Thế Tôn nói như sau:
- Này các Tỷ-kheo,
1)
sắc tưởng là vô thường, biến hoại, đổi khác.
2)
Thanh tưởng là vô thường, biến hoại, đổi khác.
3)
Hương tưởng là vô thường, biến hoại, đổi khác.
4)
Vị tưởng là vô thường, biến hoại, đổi khác.
5)
Xúc tưởng là vô thường, biến hoại, đổi khác.
6)
Pháp tưởng là vô thường, biến hoại, đổi khác.
4. - Này các Tỷ-kheo, ai có
lòng tin, có tín giải đối với những pháp này; vị ấy được gọi
là Tùy tín hành, đã nhập Chánh tánh, đã nhập
Chân nhân địa, đã vượt phàm phu địa. Vị ấy không có thể làm những hành động gì,
do làm hành động ấy phải sanh vào địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ; một vị không có
thể mệnh chung mà không chứng quả Dự lưu.
5. Với ai, này các Tỷ-kheo, kham
nhẫn một ít Thiền quán, như vậy với trí tuệ về những pháp
này; vị ấy được gọi là Tùy pháp hành, đã nhập Chánh tánh, đã nhập Chân nhân địa,
đã vượt phàm phu địa. Vị ấy không có thể làm những hành động gì, do làm hành động
ấy, phải sanh vào địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ; một vị không có thể mệnh chung
mà không chứng quả Dự lưu.
6. Với ai, này các Tỷ-kheo, đối
với những pháp này, biết rõ như vậy,
thấy như vậy, vị ấy được gọi là đã chứng Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc hướng đến
giác ngộ.
SN 25.7 – Kinh Tư: Sañcetanāsuttaṃ
1. Nhân duyên tại Sāvatthī.
2. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các
Tỷ-kheo". - "Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp
Thế Tôn.
3. Thế Tôn nói như sau:
- Này các Tỷ-kheo,
1)
sắc tư là vô thường, biến hoại, đổi khác.
2)
Thanh tư là vô thường, biến hoại, đổi khác.
3)
Hương tư là vô thường, biến hoại, đổi khác.
4)
Vị tư là vô thường, biến hoại, đổi khác.
5)
Xúc tư là vô thường, biến hoại, đổi khác.
6)
Pháp tư là vô thường, biến hoại, đổi khác.
4. - Này các Tỷ-kheo, ai có
lòng tin, có tín giải đối với những pháp này; vị ấy được gọi
là Tùy tín hành, đã nhập Chánh tánh, đã nhập
Chân nhân địa, đã vượt phàm phu địa. Vị ấy không có thể làm những hành động gì,
do làm hành động ấy phải sanh vào địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ; một vị không có
thể mệnh chung mà không chứng quả Dự lưu.
5. Với ai, này các Tỷ-kheo, kham
nhẫn một ít Thiền quán, như vậy với trí tuệ về những pháp
này; vị ấy được gọi là Tùy pháp hành,
đã nhập Chánh tánh, đã nhập Chân nhân địa, đã vượt phàm phu địa. Vị ấy không có
thể làm những hành động gì, do làm hành động ấy, phải sanh vào địa ngục, bàng
sanh, ngạ quỷ; một vị không có thể mệnh chung mà không chứng quả Dự lưu.
6. Với ai, này các Tỷ-kheo, đối
với những pháp này, biết rõ như vậy,
thấy như vậy, vị ấy được gọi là đã chứng Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc hướng đến
giác ngộ.
SN 25.8 – Kinh Ái: Taṇhāsuttaṃ
1. Nhân duyên tại Sāvatthī.
2. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các
Tỷ-kheo". - "Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp
Thế Tôn.
3. Thế Tôn nói như sau:
- Này các Tỷ-kheo,
1)
sắc ái là vô thường, biến hoại, đổi khác.
2)
Thanh ái là vô thường, biến hoại, đổi khác.
3)
Hương ái là vô thường, biến hoại, đổi khác.
4)
Vị ái là vô thường, biến hoại, đổi khác.
5)
Xúc ái là vô thường, biến hoại, đổi khác.
6)
Pháp ái là vô thường, biến hoại, đổi khác.
4. - Này các Tỷ-kheo, ai có
lòng tin, có tín giải đối với những pháp này; vị ấy được gọi
là Tùy tín hành, đã nhập Chánh tánh, đã nhập
Chân nhân địa, đã vượt phàm phu địa. Vị ấy không có thể làm những hành động gì,
do làm hành động ấy phải sanh vào địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ; một vị không có
thể mệnh chung mà không chứng quả Dự lưu.
5. Với ai, này các Tỷ-kheo, kham
nhẫn một ít Thiền quán, như vậy với trí tuệ về những pháp
này; vị ấy được gọi là Tùy pháp hành,
đã nhập Chánh tánh, đã nhập Chân nhân địa, đã vượt phàm phu địa. Vị ấy không có
thể làm những hành động gì, do làm hành động ấy, phải sanh vào địa ngục, bàng
sanh, ngạ quỷ; một vị không có thể mệnh chung mà không chứng quả Dự lưu.
6. Với ai, này các Tỷ-kheo, đối
với những pháp này, biết rõ như vậy,
thấy như vậy, vị ấy được gọi là đã chứng Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc hướng đến
giác ngộ.
SN 25.9 – Kinh Giới: Dhātusuttaṃ
1. Nhân duyên tại Sāvatthī.
2. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các
Tỷ-kheo". - "Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp
Thế Tôn.
3. Thế Tôn nói như sau:
- Này các Tỷ-kheo,
1)
địa giới là vô thường, biến hoại, đổi khác.
2)
Thủy giới là vô thường, biến hoại, đổi khác.
3)
Hỏa giới là vô thường, biến hoại, đổi khác.
4)
Phong giới là vô thường, biến hoại, đổi khác.
5)
Không giới là vô thường, biến hoại, đổi khác.
6)
Thức giới là vô thường, biến hoại, đổi khác.
4. - Này các Tỷ-kheo, ai có
lòng tin, có tín giải đối với những pháp này; vị ấy được gọi
là Tùy tín hành, đã nhập Chánh tánh, đã nhập
Chân nhân địa, đã vượt phàm phu địa. Vị ấy không có thể làm những hành động gì,
do làm hành động ấy phải sanh vào địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ; một vị không có
thể mệnh chung mà không chứng quả Dự lưu.
5. Với ai, này các Tỷ-kheo, kham
nhẫn một ít Thiền quán, như vậy với trí tuệ về những pháp
này; vị ấy được gọi là Tùy pháp hành,
đã nhập Chánh tánh, đã nhập Chân nhân địa, đã vượt phàm phu địa. Vị ấy không có
thể làm những hành động gì, do làm hành động ấy, phải sanh vào địa ngục, bàng
sanh, ngạ quỷ; một vị không có thể mệnh chung mà không chứng quả Dự lưu.
6. Với ai, này các Tỷ-kheo, đối
với những pháp này, biết rõ như vậy,
thấy như vậy, vị ấy được gọi là đã chứng Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc hướng đến
giác ngộ.
SN 25.10 – Kinh Uẩn: Khandhasuttaṃ
1. Nhân duyên tại Sāvatthī.
2. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các
Tỷ-kheo". - "Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp
Thế Tôn.
3. Thế Tôn nói như sau:
- Này các Tỷ-kheo,
1)
sắc uẩn là vô thường, biến hoại, đổi khác.
2)
Thọ uẩn là vô thường, biến hoại, đổi khác.
3)
Tưởng uẩn là vô thường, biến hoại, đổi khác.
4)
Hành uẩn là vô thường, biến hoại, đổi khác.
5)
Thức uẩn là vô thường, biến hoại, đổi khác.
4. - Này các Tỷ-kheo, ai có
lòng tin, có tín giải đối với những pháp này; vị ấy được gọi
là Tùy tín hành, đã nhập Chánh tánh, đã nhập
Chân nhân địa, đã vượt phàm phu địa. Vị ấy không có thể làm những hành động gì,
do làm hành động ấy phải sanh vào địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ; một vị không có
thể mệnh chung mà không chứng quả Dự lưu.
5. Với ai, này các Tỷ-kheo, kham
nhẫn một ít Thiền quán, như vậy với trí tuệ về những pháp
này; vị ấy được gọi là Tùy pháp hành, đã
nhập Chánh tánh, đã nhập Chân nhân địa, đã vượt phàm phu địa. Vị ấy không có thể
làm những hành động gì, do làm hành động ấy, phải sanh vào địa ngục, bàng sanh,
ngạ quỷ; một vị không có thể mệnh chung mà không chứng quả Dự lưu.
6. Với ai, này các Tỷ-kheo, đối
với những pháp này, biết rõ như vậy,
thấy như vậy, vị ấy được gọi là đã chứng Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc hướng đến
giác ngộ.
No comments:
Post a Comment