NAMO TASSA BHAGAVATO ARAHATO SAMMASAMBUDDHASA

Chánh Pháp (Phật Pháp)

Chánh Pháp mà đức Thế Tôn đã khéo thuyết giảng"thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu".

Chánh Pháp ấy là Bốn Thánh Đế và sự tu tập chân chánh là sự thực hành con đường Thánh Đạo Tám Ngành (còn được gọi là: Bát Chánh Đạo, hay Bát Thánh Đạo): Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định; y chỉ viễn ly, y chỉ ly tham, y chỉ đoạn diệt, y chỉ từ bỏ; là con đường duy nhất đưa đến đoạn tận Tham Sân Si, chấm dứt khổ đau, chấm dứt sanh tử luân hồi, chứng ngộ Niết Bàn.

Chúng ta hãy thường xuyên ôn tập và ghi nhớ lời dạy sau đây của đức Phật để tự nhắc mình luôn tinh tấn tu tập Thánh Đạo Tám Ngành:

  • "Vô thỉ là luân hồi này, này các Tỷ-kheo, khởi điểm không thể nêu rõ đối với sự lưu chuyển luân hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc".
  • "Này các Tỷ-kheo, do không giác ngộ, do không thông đạt Bốn Thánh Đế mà Ta và các Ông lâu ngày phải dong ruổi, lưu chuyển như thế này. Thế nào là bốn? Thánh đế về Khổ, Thánh đế về Khổ tập, Thánh đế về Khổ diệt, Thánh đế về Con Ðường đưa đến Khổ diệt".
  • "Này các Tỷ-kheo, một cố gắng cần phải làm để rõ biết: "Ðây là Khổ".
  • Một cố gắng cần phải làm để rõ biết: "Ðây là Khổ tập".
  • Một cố gắng cần phải làm để rõ biết: "Ðây là Khổ diệt".
  • Một cố gắng cần phải làm để rõ biết: "Ðây là Con đường đưa đến Khổ diệt"".
  • "Này các Tỷ-kheo, Thánh đế về Khổ, cần phải liễu tri.
  • Thánh đế về Khổ tập cần phải đoạn tận.
  • Thánh đế về Khổ diệt cần phải chứng ngộ.
  • Thánh đế về Con đường đưa đến Khổ diệt cần phải tu tập".

(trích Kinh Tương Ưng Bộ)

--------------------------------------------------------------------------------------------------------

Popular Posts

Showing posts with label Tu tập diệt trừ Dục Tham. Show all posts
Showing posts with label Tu tập diệt trừ Dục Tham. Show all posts

Wednesday, October 22, 2014

2.3. Kinh Già [Ôn niệm để diệt trừ Dục Tham]

[Ôn niệm để diệt trừ Dục Tham]

(Sn IV, 6) Kinh Già: Jarāsuttaṃ (Kinh Tiểu Bộ - Kinh Tập)


809. Sinh mạng này ngắn thay,
Trong trăm năm, rồi chết,
Nếu ai sống hơn nữa,
Rồi cũng chết vì già.
810. Loài người sầu vì ngã,
Mọi chấp thủ vô thường,
Trống không là đời này,
Thấy vậy sống không nhà.
811. Vì loài người nghĩ rằng:
Cái này là của tôi,
Cái ấy bị sự chết,
Làm hoại diệt, hư tàn,
Biết vậy, bậc Hiền-trí,
Không gọi, không hướng đến,
Cái này ngã của ta,
Cái này là của ta.
812. Như những gì hiện lên,
Trong giấc ngủ mộng mị,
Con người khi tỉnh dậy,
Không còn thấy được gì,
Cũng vậy ở đời này,
Người được ưa, ái luyến,
Rồi sẽ chết, mất đi,
Không ai còn thấy được.
813. Các loại hạng người ấy,
Ðược thấy và được nghe,
Nên họ được gọi tên,
Tên này hay tên khác,
Với người đã chết đi,
Chỉ được gọi tên không,
Vì chỉ có tên suông,
Sẽ được còn tồn tại.
814. Tham đắm cái của ta,
Họ không có từ bỏ,
Sầu khổ và than vãn,
Cùng xan tham, keo kiết,
Do vậy bậc ẩn sĩ,
Sau khi bỏ chấp thủ,
Ðã sống một đời sống,
Thấy được sự an ổn.
815. Ðối với vị Tỷ-kheo,
Sống thanh vắng một mình,
Sống tu tập tâm ý,
Hướng đến hạnh viễn ly,
Nếp sống vậy được nói,
Hòa hợp với vị ấy,
Và không nêu tự ngã,
Trong hiện hữu của mình.
816. Vị ẩn sĩ không tựa,
Không y chỉ một ai,
Không làm thành thương yêu,
Không tác thành ghét bỏ,
Do vậy trong sầu than,
Trong xan tham, keo kiết,
Như nước trên lá cây,
Không dính ướt, làm nhơ.
817. Giống như một giọt nước,
Không dính ướt hoa sen,
Như nước trên bông sen,
Không dính ướt, làm nhơ,
Ðối với vật thấy, nghe,
Ðược cảm thọ, tưởng đến,
Cũng vậy bậc ẩn sĩ,
Không dính ướt tham đắm.
818. Do vậy bậc tẩy sạch,
Không có suy tư đến,
Ðiều được thấy, được nghe,
Ðược cảm thọ, tưởng đến.
Vị ấy muốn thanh tịnh,
Không có dựa gì khác,
Vị ấy không tham đắm,
Cũng không có ly tham.




Tuesday, October 21, 2014

2.2. Kinh Thắng Trận [Quán Thân Bất Tịnh]

[Quán Thân Bất Tịnh]

(Sn I, 11) Kinh Thắng Trận: Vijayasuttaṃ (kinh Tập)



193. Hoặc là đi hay đứng,
Hoặc là ngồi hay nằm,
Hoặc co tay, duỗi tay,
Như vậy, thân dao động.
194. Ràng buộc với xương gân,
Trét thoa với da thịt,
Thân được da che đậy,
Như thật, không thấy rõ.
195. Trong một bụng chứa đầy,
Cục gan, và bọng đái,
Quả tim và buồng phổi,
Cả thận, và tỳ tạng.
196. Nước mũi, và nước miếng,
Mồ hôi, và nước mỡ,
Máu, và nước khớp xương,
Mật, và bạch huyết cầu.
197. Từ chín nguồn nước này,
Bất tịnh luôn luôn chảy,
Từ mắt, đồ bẩn chảy,
Từ tai, đồ bẩn chảy.
198. Nước mũi từ lỗ mũi,
Từ miệng, có khi chảy,
Chảy mật, và niêm dịch,
Từ thân, mồ hôi bẩn.
199. Trong đầu thật trống rỗng,
Chứa đầy những óc, não,
Bị vô minh dắt dẫn,
Kẻ ngu nghĩ tịnh sạch.
200. Khi bị chết nằm xuống,
Phồng lên, và xanh bầm,
Quăng bỏ trong nghĩa địa,
Bà con không đoái hoài.
201. Chó, dã can đến ăn,
Chó sói, các côn trùng,
Quạ, diều hâu đến ăn,
Còn có hữu tình khác.
202. Ðược nghe lời Phật dạy,
Tỷ-kheo có trí tuệ,
Vị ấy liễu tri thân,
Thấy thân đúng như thật.
203. Ðây thế nào, kia vậy,
Kia thế nào, đây vậy,
Ðối với thân trong, ngoài,
Từ bỏ mọi lòng dục.
204. Từ bỏ lòng tham dục,
Đây Tỷ-kheo có tuệ,
Chứng bất tử, tịch tịnh,
Niết-bàn giới thường trú.
205. Thân này với hai chân,
Bất tịnh và hôi thúi,
Ðầy xác chết, chảy nước,
Lại được giữ, nâng niu.
206. Với thân thể như vậy,
Ai lại nghĩ đề cao,
Hay khinh miệt kẻ khác,
Trừ kẻ không thấy gì.




Monday, October 13, 2014

Kinh Với Thân [có những pháp cần phải đoạn tận với thân, không phải với lời.....]

(10. 1. 3. 3) Với Thân: Kāyasuttaṃ (455) - Kinh Tăng Chi - 10 Pháp

1. - Này các Tỷ-kheo, có những pháp cần phải đoạn tận với thân, không phải với lời
Này các Tỷ-kheo, có những pháp cần phải đoạn tận với lời, không phải với thân. 
Này các Tỷ-kheo, có những pháp cần phải đoạn tận không phải với thân, không phải với lời, mà sau khi thấy, cần phải đoạn tận với trí tuệ.

2. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là những pháp cần phải đoạn tận với thân, không phải với lời?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có phạm điều bất thiện về thân, về một vấn đề gì. Sau khi suy xét về vấn đề ấy, các đồng Phạm hạnh có trí đã nói với vị ấy: "Tôn-giả có phạm điều bất thiện về thân, về một vấn đề này. Thật tốt lành thay, nếu Tôn-giả từ bỏ thân làm ác và tu tập thân làm thiện". Vị ấy được các đồng Phạm hạnh có trí sau khi suy xét nói như vậy, đoạn tận thân làm ác, tu tập thân làm thiện.
Này các Tỷ-kheo, những pháp này được gọi là những pháp cần phải đoạn tận với thân, không phải với lời.

3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là những pháp cần phải đoạn tận với lời, không phải với thân?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo phạm điều bất thiện với lời, về một vấn đề gì. Sau khi suy xét về vấn đề ấy, các đồng Phạm hạnh có trí đã nói vị ấy: "Tôn-giả có phạm điều bất thiện về lời, về một vấn đề này. Thật tốt lành thay, nếu Tôn-giả từ bỏ lời nói ác, tu tập lời nói thiện". Vị ấy được các đồng Phạm hạnh có trí sau khi suy xét nói như vậy, đoạn tận lời nói ác, tu tập lời nói thiện.
Này các Tỷ-kheo, những pháp này được gọi là những pháp cần phải đoạn tận với lời, không phải về thân.
4. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các pháp cần phải đoạn tận, không phải với thân, cũng không phải với lời, mà sau khi thấy, cần phải đoạn tận với trí tuệ?
  1. Tham, này các Tỷ-kheo, cần phải đoạn tận không phải với thân, cũng không phải với lời, mà sau khi thấy, cần phải đoạn tận với trí tuệ. 
  2. Sân, này các Tỷ-kheo, cần phải đoạn tận không phải với thân, cũng không phải với lời, mà sau khi thấy, cần phải đoạn tận với trí tuệ. 
  3. Si, này các Tỷ-kheo, cần phải đoạn tận không phải với thân, cũng không phải với lời, mà sau khi thấy, cần phải đoạn tận với trí tuệ. 
  4. Phẫn nộ, này các Tỷ-kheo, cần phải đoạn tận không phải với thân, cũng không phải với lời, mà sau khi thấy, cần phải đoạn tận với trí tuệ. 
  5. Hiềm hận, này các Tỷ-kheo, cần phải đoạn tận không phải với thân, cũng không phải với lời, mà sau khi thấy, cần phải đoạn tận với trí tuệ. 
  6. Gièm pha, này các Tỷ-kheo, cần phải đoạn tận không phải với thân, cũng không phải với lời, mà sau khi thấy, cần phải đoạn tận với trí tuệ. 
  7. Não hại, này các Tỷ-kheo, cần phải đoạn tận không phải với thân, cũng không phải với lời, mà sau khi thấy, cần phải đoạn tận với trí tuệ. 
  8. Xan tham, này các Tỷ-kheo, cần phải đoạn tận không phải với thân, cũng không phải với lời, mà sau khi thấy, cần phải đoạn tận với trí tuệ. 
  9. Ác tật đố, này các Tỷ-kheo, cần phải đoạn tận không phải với thân, cũng không phải với lời, mà sau khi thấy, cần phải đoạn tận với trí tuệ. 
  10. Ác dục, này các Tỷ-kheo, cần phải đoạn tận không phải với thân, cũng không phải với lời, mà sau khi thấy, cần phải đoạn tận với trí tuệ.

5. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ác tật đố?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người gia chủ, hay con người gia chủ, dồi dào phong phú về tài sản, về lúa gạo, về bạc hay vàng. Ở đây, một người nô tỳ hay người phục vụ khởi lên ý nghĩ như sau: "Ôi, sự dồi dào phong phú về tài sản, về lúa gạo, về bạc hay vàng thật sự không thuộc về người gia chủ hay con người gia chủ này". Hay một Sa-môn, Bà-la-môn có được các vật dụng như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Ở đây, một Sa-môn, hay Bà-la-môn khác khởi lên ý nghĩ như sau: "Ôi, mong rằng vị Tôn-giả này không nhận được các vật dụng như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh".
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là ác tật đố.
Ác tật đố, này các Tỷ-kheo, cần phải đoạn tận không phải với thân, cũng không phải với lời, mà sau khi thấy, cần phải đoạn tận với trí tuệ.
6. Này các Tỷ-kheo, ác dục cần phải đoạn tận, không phải với thân, cũng không phải với lời, mà sau khi thấy, cần phải đoạn tận với trí tuệ.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ác dục?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, 
  1. có người không có lòng tin, lại muốn rằng: "Mong rằng họ biết ta có lòng tin"
  2. có ác giới, lại muốn rằng: "Mong rằng họ biết ta là người có giới"; 
  3. nghe ít lại muốn rằng: "Mong rằng họ biết ta là người nghe nhiều"; 
  4. là người ưa thích hội chúng, lại muốn rằng: "Mong rằng họ biết ta là người sống viễn ly"; 
  5. là người biếng nhác lại muốn rằng: "Mong rằng họ biết ta là người tinh tấn"; 
  6. là người thất niệm lại muốn rằng: "Mong rằng họ biết ta là người niệm được an trú"; 
  7. là người không có định, lại muốn rằng: "Mong rằng họ biết ta là người có định"; 
  8. là người ác tuệ, lại muốn rằng: "Mong rằng họ biết ta là người có trí tuệ"; 
  9. là người chưa đoạn tận các lậu hoặc, lại muốn: "Mong rằng họ biết ta là người đã đoạn tận các lậu hoặc".

Này các Tỷ-kheo, đây gọi là ác dục.
Ác dục này, này các Tỷ-kheo, cần phải đoạn tận, không phải với thân, cũng không phải với lời, mà sau khi thấy, cần phải đoạn tận với trí tuệ.

7. Này các Tỷ-kheo, nếu tham chinh phục Tỷ-kheo và phát triển, nếu sân chinh phục Tỷ-kheo và phát triển, nếu si chinh phục Tỷ-kheo và phát triển, nếu phẫn nộ chinh phục Tỷ-kheo và phát triển, nếu hiềm hận chinh phục Tỷ-kheo và phát triển, nếu gièm pha chinh phục Tỷ-kheo và phát triển, nếu não hại chinh phục Tỷ-kheo và phát triển, nếu xan tham chinh phục Tỷ-kheo và phát triển, nếu ác tật đố chinh phục Tỷ-kheo và phát triển, nếu ác dục chinh phục Tỷ-kheo và phát triển; vị ấy cần phải được hiểu như sau: "Tôn-giả này không rõ biết như thế nào để tham không có mặt; như vậy tham chinh phục vị ấy và phát triển. Tôn-giả này không rõ biết như thế nào để sân không có mặt; như vậy sân chinh phục vị ấy và phát triển. Tôn-giả này không rõ biết như thế nào để si không có mặt; như vậy si chinh phục vị ấy và phát triển. Tôn-giả này không rõ biết như thế nào để phẫn nộ không có mặt; như vậy phẫn nộ chinh phục vị ấy và phát triển. Tôn-giả này không rõ biết như thế nào để hiềm hận không có mặt; như vậy hiềm hận chinh phục vị ấy và phát triển. Tôn-giả này không rõ biết như thế nào để gièm pha không có mặt; như vậy gièm pha chinh phục vị ấy và phát triển. Tôn-giả này không rõ biết như thế nào để não hại không có mặt; như vậy não hại chinh phục vị ấy và phát triển. Tôn-giả này không rõ biết như thế nào để xan tham không có mặt; như vậy xan tham chinh phục vị ấy và phát triển. Tôn-giả này không rõ biết như thế nào để ác tật đố không có mặt; như vậy ác tật đố chinh phục vị ấy và phát triển. Tôn-giả này không rõ biết như thế nào để ác dục không có mặt; như vậy ác dục chinh phục vị ấy và phát triển".


8. Nhưng, này các Tỷ-kheo, nếu tham không chinh phục vị Tỷ-kheo và không phát triển, nếu sân không chinh phục vị Tỷ-kheo và không phát triển, nếu si không chinh phục vị Tỷ-kheo và không phát triển, nếu phẫn nộ không chinh phục vị Tỷ-kheo và không phát triển, nếu hiềm hận không chinh phục vị Tỷ-kheo và không phát triển, nếu gièm pha không chinh phục vị Tỷ-kheo và không phát triển, nếu não hại không chinh phục vị Tỷ-kheo và không phát triển, nếu xan tham không chinh phục vị Tỷ-kheo và không phát triển, nếu ác tật đố không chinh phục vị Tỷ-kheo và không phát triển, nếu ác dục không chinh phục vị Tỷ-kheo và không phát triển; vị ấy cần phải được biết như sau: "Tôn-giả này rõ biết như thế nào để tham không có mặt; như vậy, tham không chinh phục Tôn-giả này và không phát triển. Tôn-giả này rõ biết như thế nào để sân không có mặt; như vậy, sân không chinh phục Tôn-giả này và không phát triển. Tôn-giả này rõ biết như thế nào để si không có mặt; như vậy, si không chinh phục Tôn-giả này và không phát triển. Tôn-giả này rõ biết như thế nào để phẫn nộ không có mặt; như vậy, phẫn nộ không chinh phục Tôn-giả này và không phát triển. Tôn-giả này rõ biết như thế nào để hiềm hận không có mặt; như vậy, hiềm hận không chinh phục Tôn-giả này và không phát triển. Tôn-giả này rõ biết như thế nào để gièm pha không có mặt; như vậy, gièm pha không chinh phục Tôn-giả này và không phát triển. Tôn-giả này rõ biết như thế nào để não hại không có mặt; như vậy, não hại không chinh phục Tôn-giả này và không phát triển. Tôn-giả này rõ biết như thế nào để xan tham không có mặt; như vậy, xan tham không chinh phục Tôn-giả này và không phát triển. Tôn-giả này rõ biết như thế nào để ác tật đố không có mặt; như vậy, ác tật đố không chinh phục Tôn-giả này và không phát triển. Tôn-giả này rõ biết như thế nào để ác dục không có mặt; như vậy, ác dục không chinh phục Tôn-giả này và không phát triển".

Thursday, October 9, 2014

Kinh Tham Ái [Bốn hạng người: có Tham, có Sân, có Si, có Mạn]


(4. 2. 2. 6) Tham Ái: Sarāgasuttaṃ (66) - KTC

1. - Có bốn hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn? Có tham, có sân, có si, có mạn.
2. Bốn hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt hiện hữu ở đời.
Tham ái vật đẹp đẽ,
Thích thú sắc khả ái,
Bị cột bởi vô minh,
Các hữu tình hạ liệt,
Càng tăng trưởng trói buộc.
Cho đến kẻ có trí,
Làm các việc bất thiện,
Sanh từ tham, sân, si,
Khiến phiền muộn, khó chịu,
Làm đau khổ sanh khởi.

Kẻ vô minh bao vây,
Kẻ mù không có mắt,
Tự tánh họ là vậy,
Họ không thể nghĩ rằng,
Ta có thể như vậy
.

Kinh Ðịa Ngục, Thiên Giới [Người ấy có tham ái, tham lam tài vật kẻ khác; Người ấy có sân tâm, khởi lên hại ý, hại niệm; Người ấy có tà kiến, có tưởng điên đảo]

Trích kinh Ðịa Ngục, Thiên Giới

Người ấy có tham ái, tham lam tài vật kẻ khác, nghĩ rằng: "Ôi, mong rằng mọi tài vật của người khác trở thành của mình".
Người ấy có sân tâm, khởi lên hại ý, hại niệm như sau: "Mong rằng những loài hữu tình này bị giết, hay bị tàn sát, hay bị tiêu diệt, hay bị tàn hại, hay mong chúng không còn tồn tại".
Người ấy có tà kiến, có tưởng điên đảo, như: "Không có bố thí, không có cúng thí, không có thiện thí, các hành vi thiện ác không có kết quả dị thục, không có đời này, không có đời sau, không có mẹ, không có cha, không có các loại hóa sanh, trong đời không có các Sa-môn, Bà-la-môn chân chánh hành trì, chân chánh thành tựu, sau khi tự mình chứng ngộ với thắng trí, lại tuyên bố cho đời này và cho đời sau".

------------

(10. 5. 1. 1) Ðịa Ngục, Thiên Giới (1): Paṭhamanirayasaggasuttaṃ (643) - KTC

1. - Thành tựu mười pháp, tương xứng như vậy, như vậy bị rơi vào địa ngục. Thế nào là mười?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người sát sanh, hung bạo, tay lấm máu, tâm chuyên sát hại đả thương, tâm không từ bi đối với tất cả loài hữu tình và sinh vật. Người ấy lấy của không cho, bất cứ tài vật gì của người khác, hoặc tại thôn làng, hoặc tại rừng núi, không cho người ấy, người ấy lấy trộm tài vật ấy. Người ấy sống tà hạnh trong các dục, tà hạnh với các hạng nữ nhân có mẹ che chở, có cha che chở, có anh em che chở, có chị che chở, có bà con che chở, có pháp che chở, đã có chồng, được hình phạt gậy gộc bảo vệ, cho đến những nữ nhân được trang sức bằng vòng hoa (đám cưới).
Người ấy nói láo, đến chỗ tập hội hay đến chỗ chúng hội, hay đến giữa các thân tộc, hay đến giữa các tổ hợp, hay đến giữa các vương tộc, khi bị dẫn xuất làm chứng và được hỏi: "Này người kia, hãy nói những gì ông biết"; dầu không biết, người ấy nói: "Tôi biết"; dầu biết, người ấy nói: "Tôi không biết"; hay dầu không thấy, người ấy nói: "Tôi thấy"; hay dầu cho thấy, người ấy nói: "Tôi không thấy". Như vậy lời nói của người ấy trở thành cố ý nói láo, hoặc nguyên nhân vì mình, hoặc nguyên nhân vì người, hoặc nguyên nhân vì một vài quyền lợi gì. Người ấy là người nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, đến chỗ kia nói, để sanh chia rẽ ở những người này. Nghe điều gì ở chỗ kia, đi nói với những người này, để sanh chia rẽ ở những người kia. Như vậy, người ấy ly gián những kẻ hòa hợp, hay xúi giục những kẻ ly gián, ưa thích chia rẽ, vui thích chia rẽ, thích thú chia rẽ, nói những lời đưa đến chia rẽ. Và người ấy là người nói lời thô ác. Bất cứ lời gì thô bạo, thô tục, khiến người đau khổ, khiến người tức giận, liên hệ đến phẫn nộ, không đưa đến Thiền định, người ấy nói những lời như vậy. Và người ấy nói những lời phù phiếm, nói phi thời, nói những lời phi chơn, nói những lời không lợi ích, nói những lời phi pháp, nói những lời phi Luật, nói những lời không đáng gìn giữ. Vì nói phi thời, nên lời nói không có thuận lý, không có mạch lạc, hệ thống, không có lợi ích.
Người ấy có tham ái, tham lam tài vật kẻ khác, nghĩ rằng: "Ôi, mong rằng mọi tài vật của người khác trở thành của mình".
Người ấy có sân tâm, khởi lên hại ý, hại niệm như sau: "Mong rằng những loài hữu tình này bị giết, hay bị tàn sát, hay bị tiêu diệt, hay bị tàn hại, hay mong chúng không còn tồn tại".
Người ấy có tà kiến, có tưởng điên đảo, như: "Không có bố thí, không có cúng thí, không có thiện thí, các hành vi thiện ác không có kết quả dị thục, không có đời này, không có đời sau, không có mẹ, không có cha, không có các loại hóa sanh, trong đời không có các Sa-môn, Bà-la-môn chân chánh hành trì, chân chánh thành tựu, sau khi tự mình chứng ngộ với thắng trí, lại tuyên bố cho đời này và cho đời sau".
Thành tựu mười pháp này, người ấy như vậy tương xứng rơi vào địa ngục.
3. Thành tựu mười pháp, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng, được sanh lên cõi Trời. Thế nào là mười?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người đoạn tận sát sanh, từ bỏ sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm; biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và các loài hữu tình và sinh vật; đoạn tận lấy của không cho, từ bỏ lấy của không cho, bất cứ vật gì của người khác, hoặc tại thôn làng, hoặc tại rừng núi, không cho người ấy, người ấy không lấy trộm tài vật ấy; đoạn tận tà hạnh trong các dục, từ bỏ tà hạnh trong các dục, không hành tà hạnh với các hạng nữ nhân, có mẹ che chở, có cha che chở, có anh che chở, có chị che chở, có bà con che chở, có pháp che chở, đã có chồng, được hình phạt gậy gộc bảo vệ, cho đến những nữ nhân được trang sức bằng vòng hoa (đám cưới).
Người ấy đoạn tận nói láo, từ bỏ nói láo, đến chỗ tập hội hay đến chỗ chúng hội, hay đến giữa các thân tộc, hay đến giữa các tổ hợp, hay đến giữa các vương tộc, khi bị dẫn xuất làm chứng và được hỏi: "Này ông kia, hãy nói những gì ông biết". Nếu biết, người ấy nói: "Tôi biết". Nếu không biết, người ấy nói: "Tôi không biết"; hay nếu không thấy, người ấy nói: "Tôi không thấy"; nếu thấy, người ấy nói: "Tôi thấy". Như vậy lời nói của người ấy không trở thành cố ý vọng ngữ, hoặc nguyên nhân vì mình, hoặc nguyên nhân vì người, hoặc nguyên nhân vì một vài quyền lợi gì. Ðoạn tận nói hai lưỡi, từ bỏ nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, không đi đến chỗ kia nói, để sanh chia rẽ ở những người này; nghe điều gì ở chỗ kia, không đi đến nói với những người này, để sanh chia rẽ ở những người kia. Như vậy, người ấy sống hòa hợp những kẻ ly gián, tăng trưởng những kẻ hòa hiệp, thích thú hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp. Ðoạn tận lời nói thô ác, từ bỏ lời nói thô ác. Những lời nói nhu hòa, êm tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người, vui lòng nhiều người, người ấy nói những lời như vậy. Ðoạn tận lời nói phù phiếm, nói đúng thời, nói chân thật, nói có ý nghĩa, nói đúng Pháp, nói đúng Luật, nói những lời đáng được gìn giữ. Vì nói hợp thời, nên lời nói thuận lý, có mạch lạc, hệ thống, có lợi ích.
Ở đây có người không tham ái, không tham lam tài vật kẻ khác, không nghĩ rằng: "Ôi! Mong rằng mọi tài vật của người khác trở thành của mình". Lại có người không có sân tâm, không khởi lên hại ý, hại niệm, nhưng nghĩ rằng: "Mong rằng những loài hữu tình này sống không thù hận, không oán thù, không nhiễu loạn, được an lạc, lo nghĩ tự thân". Có Chánh kiến, không có tư tưởng điên đảo, nghĩ rằng: "Có bố thí, có cúng thí, có tế tự, các hành vi thiện ác có kết quả dị thục, có đời này, có đời sau, có mẹ, có cha, có các loại hóa sanh, trong đời có các Sa-môn, Bà-la-môn chân chánh hành trì, chân chánh thành tựu, sau khi tự tri, tự chứng, lại tuyên bố cho đời này và cho đời sau".
Thành tựu mười pháp này, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng được sanh lên Thiên giới.
(10. 5. 1. 2) Ðịa Ngục Và Thiên Giới (2): Dutiyanirayasaggasuttaṃ (644)
(Giống như kinh trước)


(10. 5. 1. 3) Nữ Nhân: Mātugāmasuttaṃ (645)
1. - Này các Tỷ-kheo, thành tựu mười pháp, nữ nhân như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục. Thế nào là mười?
2. Sát sanh...; lấy của không cho...; tà hạnh trong các dục...; nói láo...; nói hai lưỡi...; nói lời thô ác...; nói lời phù phiếm...; tham ái...; sân tâm...; tà kiến... (như bài 10. 5. 1. 1)
Thành tựu mười pháp này, này các Tỷ-kheo, nữ nhân như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục.
3. Thành tựu mười pháp này, này các Tỷ-kheo, nữ nhân như vậy tương xứng được sanh lên Thiên giới. Thế nào là mười?
4. Ðoạn tận sát sanh...; đoạn tận lấy của không cho...; đoạn tận tà hạnh trong các dục...; đoạn tận nói láo...; đoạn tận nói hai lưỡi...; đoạn tận nói lời thô ác...; đoạn tận nói lời phù phiếm...; đoạn tận tham ái...; đoạn tận sân tâm...; có Chánh kiến... (như bài 10. 5. 1. 1)
Thành tựu mười pháp này, này các Tỷ-kheo, nữ nhân như vậy tương xứng được sanh lên Thiên giới.
(10. 5. 1. 4) Nữ Cư-sĩ: Upāsikāsuttaṃ (646)
1. - Này các Tỷ-kheo, thành tựu mười pháp, nữ cư-sĩ như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục. Thế nào là mười?
2. Sát sanh...; lấy của không cho...; tà hạnh trong các dục...; nói láo...; nói hai lưỡi...; nói lời thô ác...; nói lời phù phiếm...; tham ái...; sân tâm...; tà kiến...
Thành tựu mười pháp này, này các Tỷ-kheo, nữ cư-sĩ như vậy tương xứng bị rơi vào địa ngục.
3. Thành tựu mười pháp này, này các Tỷ-kheo, nữ cư-sĩ như vậy tương xứng được sanh lên Thiên giới. Thế nào là mười?
4. Ðoạn tận sát sanh...; đoạn tận lấy của không cho...; đoạn tận tà hạnh trong các dục...; đoạn tận nói láo...; đoạn tận nói hai lưỡi...; đoạn tận nói lời thô ác...; đoạn tận nói lời phù phiếm...; đoạn tận tham ái...; đoạn tận sân tâm...; có Chánh kiến...
Thành tựu mười pháp này, này các Tỷ-kheo, nữ cư-sĩ như vậy tương xứng được sanh lên Thiên giới.
(10. 5. 1. 5) Sợ Hãi Và Vô Úy: Visāradasuttaṃ (647)
1. - Thành tựu mười pháp, này các Tỷ-kheo, người nữ cư-sĩ sống ở gia đình không có vô úy. Thế nào là mười?
2. Sát sanh...; lấy của không cho...; tà hạnh trong các dục...; nói láo...; nói hai lưỡi...; nói lời thô ác...; nói lời phù phiếm...; tham ái...; sân tâm...; tà kiến...
Thành tựu mười pháp, này các Tỷ-kheo, người nữ cư-sĩ sống ở gia đình không có vô úy.
3. Thành tựu mười pháp này, này các Tỷ-kheo, người nữ cư-sĩ sống ở gia đình, không có sợ hãi.
4. Ðoạn tận sát sanh...; đoạn tận lấy của không cho...; đoạn tận tà hạnh trong các dục...; đoạn tận nói láo...; đoạn tận nói hai lưỡi...; đoạn tận nói lời thô ác...; đoạn tận nói lời phù phiếm...; đoạn tận tham ái...; đoạn tận sân tâm...; có Chánh kiến...

Thành tựu mười pháp này, này các Tỷ-kheo, người nữ cư-sĩ sống ở gia đình không có sợ hãi.

Wednesday, October 8, 2014

Kinh Các Căn Bản Bất Thiện [Tham, Sân, Si là căn bản bất thiện]

(3. 2. 2. 9) Các Căn Bản Bất Thiện: Akusalamūlasuttaṃ (1463) - KTC

1. - Này các Tỷ-kheo, có ba căn bản bất thiện này. Thế nào là ba? Tham là căn bản bất thiện, sân là căn bản bất thiện, si là căn bản bất thiện.
2. Cái gì là tham, này các Tỷ-kheo, cái ấy bất thiện. Ai với lòng tham có làm gì về thân, về lời, về ý, cái ấy bất thiện. Với ai có lòng tham, bị lòng tham chinh phục, tâm không được tự chủ, vu cáo làm người khác đau khổ, bằng cách sát hại, trói buộc, tịch thu tài sản, mắng nhiếc hay tẩn xuất, dựa trên: "Ta là sức mạnh, ta có sức mạnh", cái ấy là bất thiện. Như vậy, rất nhiều ác bất thiện pháp này sanh từ tham, duyên khởi từ tham, tập khởi từ tham, khởi lên nơi người ấy.
3.  Cái gì là sân, này các Tỷ-kheo, cái ấy bất thiện. Ai với lòng sân có làm gì về thân, về lời, về ý, cái ấy bất thiện. Với ai có lòng sân, bị lòng sân chinh phục, tâm không được tự chủ, vu cáo làm người khác đau khổ, bằng cách sát hại, trói buộc, tịch thu tài sản, mắng nhiếc hay tẩn xuất, dựa trên: "Ta là sức mạnh, ta có sức mạnh", cái ấy là bất thiện. Như vậy, rất nhiều ác bất thiện pháp này sanh từ sân, duyên khởi từ sân, tập khởi từ sân, khởi lên nơi người ấy.
4. Cái gì là si, này các Tỷ-kheo, cái ấy bất thiện. Ai với lòng si có làm gì về thân, về lời, về ý, cái ấy bất thiện. Với ai có lòng si, bị lòng si chinh phục, tâm không được tự chủ, vu cáo làm người khác đau khổ, bằng cách sát hại, trói buộc, tịch thu tài sản, mắng nhiếc hay tẩn xuất, dựa trên: "Ta là sức mạnh, ta có sức mạnh", cái ấy là bất thiện. Như vậy, rất nhiều ác bất thiện pháp này sanh từ si, duyên khởi từ si, tập khởi từ si, khởi lên nơi người ấy.
5. Như vậy, này các Tỷ-kheo, người này được gọi là người nói phi thời, nói không thực, nói không trúng đích, nói phi pháp, nói phi luật. Vì sao người như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là người nói phi thời, nói không thực, nói không trúng đích, nói phi pháp, nói phi luật? Như vầy là vì người này, này các Tỷ-kheo, đã vu cáo làm người khác đau khổ, bằng cách sát hại, trói buộc, tịch thu tài sản, mắng nhiếc hay tẩn xuất, dựa trên: "Ta là sức mạnh, ta có sức mạnh". Khi được đối chất với sự thật, người ấy phủ nhận, không có chấp nhận, khi được đối chất với sự không thật, người ấy không có nhiệt tình thoát mở ra ngoài, nói rằng: "Ðây là không chân, đây là không thực". Cho nên, người như vậy được gọi là người nói phi thời, nói không thực, nói không trúng đích, nói phi pháp, nói phi luật.
Người như vậy, này các Tỷ-kheo, bị các ác bất thiện pháp do tham sanh nhiếp phục, tâm mất tự chủ, ngay trong hiện tại sống đau khổ với sự tổn não, với sự ưu não, với sự nhiệt não, sau khi thân hoại mạng chung, được chờ đợi là ác thú. Người như vậy, này các Tỷ-kheo, bị các ác bất thiện pháp do sân sanh nhiếp phục, tâm mất sự tự chủ, ngay trong hiện tại sống đau khổ với sự tổn não, với sự ưu não, với sự nhiệt não, sau khi thân hoại mạng chung, được chờ đợi là ác thú. Người như vậy, này các Tỷ-kheo, bị các ác bất thiện pháp do si sanh nhiếp phục, tâm mất tự chủ, ngay trong hiện tại sống đau khổ với sự tổn não, với sự ưu não, với sự nhiệt não, sau khi thân hoại mạng chung, được chờ đợi là ác thú.
6. Ví như này các Tỷ-kheo, cây Sāla hay cây Dhava hay cây Phandana bị phá hoại, bị bao trùm bởi ba loại tầm gởi, đi đến tổn hại, đi đến bất hạnh, đi đến tổn hại, và bất hạnh.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, người như vậy, này các Tỷ-kheo, bị các ác bất thiện pháp do tham sanh nhiếp phục, tâm mất tự chủ, ngay trong hiện tại sống đau khổ với sự tổn não, với sự ưu não, với sự nhiệt não, sau khi thân hoại mạng chung, được chờ đợi là ác thú. Người như vậy, này các Tỷ-kheo, bị các ác bất thiện pháp do sân sanh nhiếp phục, tâm mất sự tự chủ, ngay trong hiện tại sống đau khổ với sự tổn não, với sự ưu não, với sự nhiệt não, sau khi thân hoại mạng chung, được chờ đợi là ác thú. Người như vậy, này các Tỷ-kheo, bị các ác bất thiện pháp do si sanh nhiếp phục, tâm mất tự chủ, ngay trong hiện tại sống đau khổ với sự tổn não, với sự ưu não, với sự nhiệt não, sau khi thân hoại mạng chung, được chờ đợi là ác thú.
Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là ba căn bản bất thiện.
7. Có ba căn bản của thiện, này các Tỷ-kheo. Thế nào là ba? Không tham là căn bản của thiện, không sân là căn bản của thiện, không si là căn bản của thiện.
8. Cái gì là không tham, này các Tỷ-kheo, cái ấy thiện. Ai với lòng không tham có làm gì về thân, về lời, về ý, cái ấy thiện. Ai không có lòng tham, không bị lòng tham chinh phục, tâm được tự chủ, không vu cáo làm người khác đau khổ, bằng cách sát hại, trói buộc, tịch thu tài sản, mắng nhiếc hay tẩn xuất, dựa trên: "Ta là sức mạnh, ta có sức mạnh", cái ấy là thiện. Như vậy, rất nhiều thiện pháp này sanh từ không tham, duyên khởi từ không tham, tập khởi từ không tham, khởi lên nơi người ấy.
9. Cái gì là không sân, này các Tỷ-kheo, cái ấy thiện. Ai với lòng không sân có làm gì về thân, về lời, về ý, cái ấy thiện. Với ai không có lòng sân, không bị lòng sân chinh phục, tâm được tự chủ, không vu cáo làm người khác đau khổ, bằng cách sát hại, trói buộc, tịch thu tài sản, mắng nhiếc hay tẩn xuất, dựa trên: "Ta là sức mạnh, ta có sức mạnh", cái ấy là thiện. Như vậy, rất nhiều thiện pháp này sanh từ không sân, duyên khởi từ không sân, tập khởi từ không sân, khởi lên nơi người ấy.
10. Cái gì là không si, này các Tỷ-kheo, cái ấy là thiện. Ai với lòng không si có làm gì về thân, về lời, về ý, cái ấy thiện. Với ai không có lòng si, không bị lòng si chinh phục, tâm được tự chủ, không vu cáo làm người khác đau khổ, bằng cách sát hại, trói buộc, tịch thu tài sản, mắng nhiếc hay tẩn xuất, dựa trên: "Ta là sức mạnh, ta có sức mạnh", cái ấy là thiện. Như vậy, rất nhiều thiện pháp này sanh ra từ không si, duyên khởi từ không si, tập khởi từ không si, khởi lên nơi người ấy.
11. Như vậy, này các Tỷ-kheo, người này được gọi là người nói đúng thời, nói thực, nói trúng đích, nói đúng pháp, nói đúng luật. Vì sao người như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là người nói đúng thời, nói thực, nói trúng đích, nói đúng pháp, nói đúng luật? Như vầy là vì người này, này các Tỷ-kheo, đã không vu cáo làm người khác đau khổ, bằng cách sát hại, trói buộc, tịch thu tài sản, mắng nhiếc hay tẩn xuất, dựa trên: "Ta là sức mạnh, ta có sức mạnh". Khi được đối chất với sự thật, người ấy chấp nhận, không có phủ nhận, khi được đối chất với sự không thật, người ấy nhiệt tình thoát mở ra ngoài, nói rằng: "Ðây là chân, đây là thực". Cho nên, người như vậy được gọi là người nói đúng thời, nói thực, nói trúng đích, nói đúng pháp, nói đúng luật.
Người như vậy, này các Tỷ-kheo, đoạn tận các ác bất thiện do tham sanh, cắt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây Tāla, làm cho không hiện hữu, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai, ngay trong hiện tại sống an lạc, không có tổn não, không có ưu não, không có nhiệt não, sau khi thân hoại mạng chung, ngay trong hiện tại được Bát-Niết-bàn. Người như vậy, này các Tỷ-kheo, đoạn tận các ác bất thiện do sân sanh, cắt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây Tāla, làm cho không hiện hữu, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai, ngay trong hiện tại sống an lạc, không có tổn não, không có ưu não, không có nhiệt não, sau khi thân hoại mạng chung, ngay trong hiện tại được Bát-Niết-bàn. Người như vậy, này các Tỷ-kheo, đoạn tận các ác bất thiện do si sanh, cắt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây Tāla, làm cho không hiện hữu, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai, ngay trong hiện tại sống an lạc, không có tổn não, không có ưu não, không có nhiệt não, sau khi thân hoại mạng chung, ngay trong hiện tại được Bát-Niết-bàn.
12. Ví như, này các Tỷ-kheo, cây Sāla hay cây Dhava, cây Phandana, bị ba cây tầm gởi phá hoại bao trùm. Rồi có người đi đến, cầm cuốc và thúng. Người ấy chặt đứt rễ cây tầm gởi ấy, sau khi chặt đứt rễ, người ấy đào mương. Ðào mương xong, người ấy nhổ các rễ lên, nhổ cho đến các rễ nhỏ, rễ có mùi thơm (Usīra). Rồi người ấy chặt cây tầm gởi thành từng khúc nhỏ, bửa và chẻ thành từng mảnh nhỏ, người ấy đem phơi giữa gió và mặt trời. Sau khi phơi giữa gió và mặt trời, người ấy lấy lửa đốt, làm thành một đống tro, và quạt chúng ra giữa gió lớn, hay đổ chúng xuống dòng nước chảy nhanh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các cây tầm gởi ấy, bị cắt đứt gốc từ rễ, bị làm cho như thân cây Tāla, làm cho không hiện hữu, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, người như vậy, này các Tỷ-kheo, đoạn tận các ác bất thiện do tham sanh, cắt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây Tāla, làm cho không hiện hữu, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai, ngay trong hiện tại sống an lạc, không có tổn não, không có ưu não, không có nhiệt não, sau khi thân hoại mạng chung, ngay trong hiện tại được Bát-Niết-bàn. Người như vậy, này các Tỷ-kheo, đoạn tận các ác bất thiện do sân sanh, cắt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây Tāla, làm cho không hiện hữu, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai, ngay trong hiện tại sống an lạc, không có tổn não, không có ưu não, không có nhiệt não, sau khi thân hoại mạng chung, ngay trong hiện tại được Bát-Niết-bàn. Người như vậy, này các Tỷ-kheo, đoạn tận các ác bất thiện do si sanh, cắt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây Tāla, làm cho không hiện hữu, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai, ngay trong hiện tại sống an lạc, không có tổn não, không có ưu não, không có nhiệt não, sau khi thân hoại mạng chung, ngay trong hiện tại được Bát-Niết-bàn.
Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là ba căn bản của thiện.

Kinh Du Sĩ Ngoại Ðạo [Tham là tội nhỏ, nhưng ly tham là chậm chạp. Sân là tội lớn, nhưng ly sân là mau chóng. Si là tội lớn, và ly si là chậm chạp]

Tóm tắt Kinh Du Sĩ Ngoại Đạo (kinh Tăng Chi) 
  • Tham là tội nhỏ, nhưng ly tham là chậm chạp. 
  • Sân là tội lớn, nhưng ly sân là mau chóng. 
  • Si là tội lớn, và ly si là chậm chạp
*******
  • Do nhân gì, do duyên gì Tham chưa sanh được sanh khởi, và tham sanh rồi đưa đến tăng trưởng, quảng đại? --- Tịnh tướngkhông như lý tác ý 
  • Do nhân gì, do duyên gì Sân chưa sanh được sanh khởi, và tham sanh rồi đưa đến tăng trưởng, quảng đại? ---Chướng ngại tướng và không như lý tác ý
  • Do nhân gì, do duyên gì Si chưa sanh được sanh khởi, và tham sanh rồi đưa đến tăng trưởng, quảng đại? ---Không như lý tác ý.
*******
  • Do nhân gì, do duyên gì Tham chưa sanh không sanh khởi, hay tham đã sanh được đoạn tận? ---Tướng bất tịnh và Như lý tác ý 
  • Do nhân gì, do duyên gì Sân chưa sanh không sanh khởi, hay tham đã sanh được đoạn tận? ---Từ tâm giải thoát và Như lý tác ý 
  • Do nhân gì, do duyên gì Si chưa sanh không sanh khởi, hay tham đã sanh được đoạn tận? ---Như lý tác ý
--------------------------------------------------------------

(3. 2. 2. 8) Du-sĩ Ngoại Ðạo: Aññatitthiyasuttaṃ (1462) - KTC


1. - Này các Tỷ-kheo, nếu các du-sĩ ngoại đạo hỏi như sau: "Có ba pháp này, này các Hiền-giả. Thế nào là ba? Tham, sân, si. Những pháp này, này các Hiền-giả, là ba pháp. Trong ba pháp này, này các Hiền-giả, thế nào là đặc thù, thế nào là thù thắng, thế nào là khác biệt?" Ðược hỏi vậy, này các Tỷ-kheo, các ông trả lời như thế nào với các du-sĩ ngoại đạo ấy?
- Ðối với chúng con, bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm lãnh đạo, lấy Thế Tôn làm nương tựa. Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết ý nghĩa lời nói này cho chúng con. Sau khi nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.
- Vậy này các Tỷ-kheo, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói!
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn. - Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
2. Thế Tôn nói như sau:
- Này các Tỷ-kheo, nếu các du-sĩ ngoại đạo hỏi như sau: "Có ba pháp này, này các Hiền-giả. Thế nào là ba? Tham, sân, si. Những pháp này, này các Hiền-giả, là ba pháp. Trong ba pháp này, này các Hiền-giả, thế nào là đặc thù, thế nào là thù thắng, thế nào là khác biệt?" Ðược hỏi vậy, này các Tỷ-kheo, các thầy cần phải trả lời cho các du-sĩ ngoại đạo ấy như sau: "Tham, thưa các Hiền-giả, là tội nhỏ, nhưng ly tham là chậm chạp. Sân là tội lớn, nhưng ly sân là mau chóng. Si là tội lớn, và ly si là chậm chạp".
3. Do nhân gì, này chư Hiền, do duyên gì tham chưa sanh được sanh khởi, và tham sanh rồi đưa đến tăng trưởng, quảng đại?"
Cần phải trả lời là "Tịnh tướng". "Với ai không như lý tác ý tịnh tướng, thời tham chưa sanh được sanh khởi, và tham đã sanh được tăng trưởng quảng đại. Ðây là nhân, này các Hiền-giả, đây là duyên, tham chưa sanh được sanh khởi, và tham đã sanh được tăng trưởng quảng đại".
4. "Do nhân gì, này các chư Hiền, do duyên gì sân chưa sanh được sanh khởi, và sân đã sanh được tăng trưởng, quảng đại?"
Cần phải trả lời là "Chướng ngại tướng". "Với ai không như lý tác ý chướng ngại tướng, thời sân chưa sanh được sanh khởi, sân sanh rồi được tăng trưởng quảng đại. Ðây là nhân, này các Hiền-giả, đây là duyên, khiến sân chưa sanh được sanh khởi, và sân đã sanh được tăng trưởng quảng đại".
5. "Do nhân gì, này các chư Hiền, do duyên gì si chưa sanh được sanh khởi, và si đã sanh được tăng trưởng, quảng đại?"
Cần phải trả lời là "Không như lý tác ý". "Với ai không như lý tác ý, thời si chưa sanh được sanh khởi, và si đã sanh được tăng trưởng quảng đại. Ðây là nhân, này các Hiền-giả, đây là duyên, khiến si chưa sanh được sanh khởi, và si đã sanh được tăng trưởng quảng đại".
6. "Do nhân gì, này các chư Hiền, do duyên gì tham chưa sanh không sanh khởi, hay tham đã sanh được đoạn tận?"
Cần phải trả lời là "Tướng bất tịnh". "Với ai như lý tác ý tướng bất tịnh, thời tham chưa sanh không sanh khởi, hay tham đã sanh được đoạn tận. Ðây là nhân, này các Hiền-giả, đây là duyên khiến tham chưa sanh không sanh khởi, hay tham đã sanh được đoạn tận".
7. "Do nhân gì, này các chư Hiền, do duyên gì sân chưa sanh không sanh khởi, hay sân đã sanh được đoạn tận?"
Cần phải trả lời là "Từ tâm giải thoát". "Với ai như lý tác ý từ tâm giải thoát, thời sân chưa sanh không sanh khởi, hay sân đã sanh được đoạn tận. Ðây là nhân, này các Hiền-giả, đây là duyên khiến sân chưa sanh không sanh khởi, hay sân đã sanh được đoạn tận".
8. "Do nhân gì, này các chư Hiền, do duyên gì si chưa sanh không sanh khởi, hay si đã sanh được đoạn tận?"
Cần phải trả lời là "Như lý tác ý". "Với ai như lý tác ý, thời si chưa sanh không sanh khởi, và si đã sanh được đoạn tận. Ðây là nhân, này các Hiền-giả, đây là duyên khiến si chưa sanh không sanh khởi, hay si đã sanh được đoạn tận".


Tuesday, October 7, 2014

Kinh Nhất Dạ Hiền-giả [Quá khứ không truy tìm, Tương lai không ước vọng...]

[Kinh Trung Bộ - tập 3]

131. Kinh Nhất Dạ Hiền-giả
(Bhaddekarattasutta)

1. Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn ở Sāvatthī (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà lâm), tại tịnh-xá ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc).
Ở đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". - "Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
2. - Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết giảng cho các ông: 'Nhứt Dạ Hiền-giả' (Bhaddekaratta), tổng thuyết và biệt thuyết. Hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ thuyết giảng.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn-giảng như sau:
3. Quá khứ không truy tìm,
Tương lai không ước vọng,
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến.
Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính ở đây,
Không động, không rung chuyển,
Biết vậy, nên tu tập.
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai?
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết.
Trú như vậy nhiệt tâm,
Ðêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ Hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.

4. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là truy tìm quá khứ? 

Vị ấy nghĩ: "Như vậy là sắc của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Như vậy là thọ của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Như vậy là tưởng của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Như vậy là hành của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Như vậy, là thức của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. 
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là truy tìm quá khứ.

5. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là không truy tìm quá khứ? 

Vị ấy nghĩ: "Như vậy là sắc của tôi trong quá khứ", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Như vậy là thọ của tôi trong quá khứ", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Như vậy là tưởng của tôi trong quá khứ", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Như vậy là hành của tôi trong quá khứ", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Như vậy là thức của tôi trong quá khứ", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là không truy tìm quá khứ.

6. Và này các Tỷ-kheo, thế nào ước vọng trong tương lai? 

Vị ấy nghĩ: "Mong rằng như vậy sẽ là sắc của tôi trong tương lai", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Mong rằng như vậy sẽ là thọ của tôi trong tương lai", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Mong rằng như vậy là tưởng của tôi trong tương lai", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Mong rằng như vậy là hành của tôi trong tương lai", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Mong rằng như vậy là thức của tôi trong tương lai", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. 
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là ước vọng trong tương lai.

7. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là không ước vọng trong tương lai?

Vị ấy nghĩ: "Mong rằng như vậy sẽ là sắc của tôi trong tương lai", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Mong rằng như vậy sẽ là thọ của tôi trong tương lai", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Mong rằng như vậy sẽ là tưởng của tôi trong tương lai", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Mong rằng như vậy sẽ là hành của tôi trong tương lai", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Mong rằng như vậy sẽ là thức của tôi trong tương lai", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. 
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là không ước vọng trong tương lai.

8. Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại? 

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có kẻ vô văn phàm phu không đi đến các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh; không đi đến các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân; quán sắc là tự ngã, hay quán tự ngã là có sắc, hay quán sắc là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong sắc; hay vị ấy quán thọ là tự ngã, hay quán tự ngã là có thọ, hay quán thọ là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong thọ; hay vị ấy quán tưởng là tự ngã, hay quán tự ngã là có tưởng, hay vị ấy quán tưởng là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong tưởng; hay vị ấy quán hành là tự ngã, hay vị ấy quán tự ngã là có hành, hay vị ấy quán hành là trong tự ngã, hay vị ấy quán tự ngã là trong hành; hay vị ấy quán thức là tự ngã, hay quán tự ngã là có thức, hay quán thức là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong thức. 
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.

9. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại? 

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có vị Ða văn Thánh đệ tử đi đến các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, đi đến các bậc Chân nhân, thuần thục pháp các bậc Chân nhân, tu tập pháp các bậc Chân nhân. Vị này không quán sắc là tự ngã, không quán tự ngã là có sắc, không quán sắc trong tự ngã, không quán tự ngã trong sắc; không quán thọ là tự ngã, không quán tự ngã là có thọ, không quán thọ là trong tự ngã, không quán tự ngã trong thọ; không quán tưởng là tự ngã, không quán tự ngã là có tưởng, không quán tưởng là trong tự ngã, không quán tự ngã trong tưởng; không quán hành là tự ngã, không quán tự ngã là có hành, không quán hành là trong tự ngã, không quán tự ngã trong hành; không quán thức là tự ngã, không quán tự ngã là có thức, không quán thức trong tự ngã, không quán tự ngã trong thức. 
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.

10. Quá khứ không truy tìm,
Tương lai không ước vọng,
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến.
Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính ở đây,
Không động, không rung chuyển,
Biết vậy, nên tu tập.
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai?
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết.
Trú như vậy nhiệt tâm,
Ðêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ Hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.
11. Khi ta nói: "Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các ông: 'Nhứt Dạ Hiền-giả', tổng thuyết và biệt thuyết", chính duyên ở đây mà nói vậy.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn.



132. Kinh A-nan Nhất Dạ Hiền-giả
(Ānandabhaddekarattasutta)

1. Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn ở Sāvatthī (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà lâm), tại tịnh-xá ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc).
2. Lúc bấy giờ, Tôn-giả Ānanda (A-nan) tại hội trường, thuyết thị, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các Tỷ-kheo với bài thuyết pháp. Tôn-giả giảng Nhứt Dạ Hiền-giả, tổng thuyết và biệt thuyết. Rồi Thế Tôn vào buổi chiều, từ Thiền tịnh độc cư đứng dậy đi đến hội trường, sau khi đến, ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, ai tại hội trường đã thuyết thị, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các Tỷ-kheo với bài thuyết pháp. Ai đã giảng Nhứt Dạ Hiền-giả, tổng thuyết và biệt thuyết?
- Bạch Thế Tôn, Tôn-giả Ānanda tại hội trường đã thuyết thị, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các Tỷ-kheo với bài thuyết pháp. Tôn-giả đã giảng Nhứt Dạ Hiền-giả, tổng thuyết và biệt thuyết.
Rồi Thế Tôn bảo Tôn-giả Ānanda:
- Nhưng như thế nào, này Ānanda, ông đã thuyết thị, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các Tỷ-kheo với bài thuyết pháp? Ông có phải đã giảng Nhứt Dạ Hiền-giả, tổng thuyết và biệt thuyết?
3. - Ðúng vậy, bạch Thế Tôn, con đã thuyết thị, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các Tỷ-kheo với bài thuyết pháp. Con đã giảng Nhứt Dạ Hiền-giả, tổng thuyết và biệt thuyết:
Quá khứ không truy tìm,
Tương lai không ước vọng,
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến.
Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính ở đây,
Không động, không rung chuyển,
Biết vậy, nên tu tập.
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai?
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết.
Trú như vậy nhiệt tâm,
Ðêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ Hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.
4. Và này các Hiền-giả, thế nào là truy tìm quá khứ? Vị ấy nghĩ: "Như vậy là sắc của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Như vậy là thọ của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Như vậy là tưởng của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Như vậy là hành của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Như vậy, là thức của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này các Hiền-giả, là truy tìm quá khứ.
5. Và này các Hiền-giả, thế nào là không truy tìm quá khứ? Vị ấy nghĩ: "Như vậy là sắc của tôi trong quá khứ", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Như vậy là thọ của tôi trong quá khứ", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Như vậy là tưởng của tôi trong quá khứ", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Như vậy là hành của tôi trong quá khứ", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Như vậy là thức của tôi trong quá khứ", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này các Hiền-giả, là không truy tìm quá khứ.
6. Và này các Hiền-giả, thế nào ước vọng trong tương lai? Vị ấy nghĩ: "Mong rằng như vậy sẽ là sắc của tôi trong tương lai", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Mong rằng như vậy sẽ là thọ của tôi trong tương lai", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Mong rằng như vậy là tưởng của tôi trong tương lai", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Mong rằng như vậy là hành của tôi trong tương lai", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Mong rằng như vậy là thức của tôi trong tương lai", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này các Hiền-giả, là ước vọng trong tương lai.
7. Và này các Hiền-giả, thế nào là không ước vọng trong tương lai? Vị ấy nghĩ: "Mong rằng như vậy sẽ là sắc của tôi trong tương lai", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Mong rằng như vậy sẽ là thọ của tôi trong tương lai", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Mong rằng như vậy sẽ là tưởng của tôi trong tương lai", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Mong rằng như vậy sẽ là hành của tôi trong tương lai", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Mong rằng như vậy sẽ là thức của tôi trong tương lai", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này các Hiền-giả, là không ước vọng trong tương lai.
8. Và này các Hiền-giả, như thế nào là bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại? Ở đây, này các Hiền-giả, có kẻ vô văn phàm phu không đi đến các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh; không đi đến các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân; quán sắc là tự ngã, hay quán tự ngã là có sắc, hay quán sắc là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong sắc; hay vị ấy quán thọ là tự ngã, hay quán tự ngã là có thọ, hay quán thọ là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong thọ; hay vị ấy quán tưởng là tự ngã, hay quán tự ngã là có tưởng, hay vị ấy quán tưởng là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong tưởng; hay vị ấy quán hành là tự ngã, hay vị ấy quán tự ngã là có hành, hay vị ấy quán hành là trong tự ngã, hay vị ấy quán tự ngã là trong hành; hay vị ấy quán thức là tự ngã, hay quán tự ngã là có thức, hay quán thức là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong thức. Như vậy, này các Hiền-giả, là bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.
9. Và này các Hiền-giả, thế nào là không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại? Ở đây, này các Hiền-giả, có vị Ða văn Thánh đệ tử đi đến các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, đi đến các bậc Chân nhân, thuần thục pháp các bậc Chân nhân, tu tập pháp các bậc Chân nhân. Vị này không quán sắc là tự ngã, không quán tự ngã là có sắc, không quán sắc trong tự ngã, không quán tự ngã trong sắc; không quán thọ là tự ngã, không quán tự ngã là có thọ, không quán thọ là trong tự ngã, không quán tự ngã trong thọ; không quán tưởng là tự ngã, không quán tự ngã là có tưởng, không quán tưởng là trong tự ngã, không quán tự ngã trong tưởng; không quán hành là tự ngã, không quán tự ngã là có hành, không quán hành là trong tự ngã, không quán tự ngã trong hành; không quán thức là tự ngã, không quán tự ngã là có thức, không quán thức trong tự ngã, không quán tự ngã trong thức. Như vậy, này các Hiền-giả, là không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.
10. Quá khứ không truy tìm,
Tương lai không ước vọng,
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến.
Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính ở đây,
Không động, không rung chuyển,
Biết vậy, nên tu tập.
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai?
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết.
Trú như vậy nhiệt tâm,
Ðêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ Hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.
11. Như vậy, bạch Thế Tôn, con đã thuyết thị, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các Tỷ-kheo. Con đã giảng Nhứt Dạ Hiền-giả, tổng thuyết và biệt thuyết.
- Lành thay, lành thay, này Ānanda! Lành thay, này Ānanda! Ông đã thuyết thị, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các Tỷ-kheo với bài thuyết pháp. Ông đã giảng Nhứt Dạ Hiền-giả, tổng thuyết và biệt thuyết.
12. Quá khứ không truy tìm,
Tương lai không ước vọng,
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến.
Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính ở đây,
Không động, không rung chuyển,
Biết vậy, nên tu tập.
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai?
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết.
Trú như vậy nhiệt tâm,
Ðêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ Hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.
13. - Và này Ānanda, thế nào là truy tìm quá khứ? Vị ấy nghĩ: "Như vậy là sắc của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Như vậy là thọ của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Như vậy là tưởng của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Như vậy là hành của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Như vậy, là thức của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này Ānanda, là truy tìm quá khứ.
14. Và này Ānanda, thế nào là không truy tìm quá khứ? Vị ấy nghĩ: "Như vậy là sắc của tôi trong quá khứ", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Như vậy là thọ của tôi trong quá khứ", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Như vậy là tưởng của tôi trong quá khứ", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Như vậy là hành của tôi trong quá khứ", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Như vậy là thức của tôi trong quá khứ", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này Ānanda, là không truy tìm quá khứ.
15. Và này Ānanda, thế nào ước vọng trong tương lai? Vị ấy nghĩ: "Mong rằng như vậy sẽ là sắc của tôi trong tương lai", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Mong rằng như vậy sẽ là thọ của tôi trong tương lai", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Mong rằng như vậy là tưởng của tôi trong tương lai", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Mong rằng như vậy là hành của tôi trong tương lai", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Mong rằng như vậy là thức của tôi trong tương lai", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này Ānanda, là ước vọng trong tương lai.
16. Và này Ānanda, thế nào là không ước vọng trong tương lai? Vị ấy nghĩ: "Mong rằng như vậy sẽ là sắc của tôi trong tương lai", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Mong rằng như vậy sẽ là thọ của tôi trong tương lai", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Mong rằng như vậy sẽ là tưởng của tôi trong tương lai", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Mong rằng như vậy sẽ là hành của tôi trong tương lai", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Mong rằng như vậy sẽ là thức của tôi trong tương lai", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này Ānanda, là không ước vọng trong tương lai.
17. Và này Ānanda, như thế nào là bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại? Ở đây, này Ānanda, có kẻ vô văn phàm phu không đi đến các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh; không đi đến các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân; quán sắc là tự ngã, hay quán tự ngã là có sắc, hay quán sắc là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong sắc; hay vị ấy quán thọ là tự ngã, hay quán tự ngã là có thọ, hay quán thọ là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong thọ; hay vị ấy quán tưởng là tự ngã, hay quán tự ngã là có tưởng, hay vị ấy quán tưởng là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong tưởng; hay vị ấy quán hành là tự ngã, hay vị ấy quán tự ngã là có hành, hay vị ấy quán hành là trong tự ngã, hay vị ấy quán tự ngã là trong hành; hay vị ấy quán thức là tự ngã, hay quán tự ngã là có thức, hay quán thức là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong thức. Như vậy, này Ānanda, là bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.
18. Và này Ānanda, thế nào là không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại? Ở đây, này Ānanda, có vị Ða văn Thánh đệ tử đi đến các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, đi đến các bậc Chân nhân, thuần thục pháp các bậc Chân nhân, tu tập pháp các bậc Chân nhân. Vị này không quán sắc là tự ngã, không quán tự ngã là có sắc, không quán sắc trong tự ngã, không quán tự ngã trong sắc; không quán thọ là tự ngã, không quán tự ngã là có thọ, không quán thọ là trong tự ngã, không quán tự ngã trong thọ; không quán tưởng là tự ngã, không quán tự ngã là có tưởng, không quán tưởng là trong tự ngã, không quán tự ngã trong tưởng; không quán hành là tự ngã, không quán tự ngã là có hành, không quán hành là trong tự ngã, không quán tự ngã trong hành; không quán thức là tự ngã, không quán tự ngã là có thức, không quán thức trong tự ngã, không quán tự ngã trong thức. Như vậy, này Ānanda, là không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.
19. Quá khứ không truy tìm,
Tương lai không ước vọng,
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến.
Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính ở đây,
Không động, không rung chuyển,
Biết vậy, nên tu tập.
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai?
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết.
Trú như vậy nhiệt tâm,
Ðêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ Hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn-giả Ānanda hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.



133. Kinh Ðại Ca-chiên-diên
Nhất Dạ Hiền-giả
(Mahākaccānabhaddekarattasutta)

1. Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn trú ở Rājagaha (Vương Xá), tại tịnh-xá Tapoda (suối nước nóng).
2. Lúc bấy giờ, Tôn-giả Samiddhi, thức dậy vừa lúc bình minh đi đến Tapoda để tắm rửa tay chân. Tắm rửa tay chân ở Tapoda xong, sau khi lên khỏi nước, vị ấy đứng mặc một y để tay chân cho khô. Rồi sau khi đêm vừa mãn, một Thiên thần, chói sáng với dung sắc thù thắng cả vùng Tapoda, đi đến Tôn-giả Samiddhi, sau khi đến, liền đứng một bên. Ðứng một bên, Thiên Thần ấy thưa Tôn-giả Samiddhi:
- Này Tỷ-kheo, ngài có thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền-giả không?
- Này Hiền-giả, tôi không có thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền-giả. Nhưng này Hiền-giả, Hiền-giả có thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền-giả không?
- Này Tỷ-kheo, tôi cũng không có thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền-giả. Nhưng này Tỷ-kheo, ngài có thọ trì bài kệ về Nhứt Dạ Hiền-giả không?
- Này Hiền-giả, tôi không có thọ trì bài kệ về Nhứt Dạ Hiền-giả. Nhưng này Hiền-giả, Hiền-giả có thọ trì bài kệ về Nhứt Dạ Hiền-giả không?
- Này Tỷ-kheo, tôi không có thọ trì bài kệ về Nhứt Dạ Hiền-giả. Này Tỷ-kheo, hãy học tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền-giả. Này Tỷ-kheo, hãy học cho thuần thục tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền-giả. Này Tỷ-kheo, hãy thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền-giả. Vì rằng, này Tỷ-kheo, tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền-giả là liên hệ đến mục đích và căn bản của Phạm hạnh.
Thiên thần ấy nói như vậy. Sau khi nói vậy, vị ấy biến mất ở đấy.
3. Rồi Tôn-giả Samiddhi sau khi đêm ấy đã mãn, liền đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn-giả Samiddhi bạch Thế Tôn:
- Ở đây, bạch Thế Tôn, con thức dậy vừa lúc bình mình, đi đến Tapoda để tắm rửa tay chân. Tắm rửa tay chân ở Tapoda xong, sau khi lên khỏi nước, con đứng mặc một y để tay chân cho khô. Rồi bạch Thế Tôn, sau khi đêm vừa mãn, một Thiên thần, chói sáng với dung sắc thù thắng cả vùng Tapoda, đi đến con, sau khi đến, liền đứng một bên. Ðứng một bên, Thiên Thần ấy nói với con:
- Này Tỷ-kheo, ngài có thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền-giả không?
- Này Hiền-giả, tôi không có thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền-giả. Nhưng này Hiền-giả, Hiền-giả có thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền-giả không?
- Này Tỷ-kheo, tôi cũng không có thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền-giả. Nhưng này Tỷ-kheo, ngài có thọ trì bài kệ về Nhứt Dạ Hiền-giả không?
- Này Hiền-giả, tôi không có thọ trì bài kệ về Nhứt Dạ Hiền-giả. Nhưng này Hiền-giả, Hiền-giả có thọ trì bài kệ về Nhứt Dạ Hiền-giả không?
- Này Tỷ-kheo, tôi không có thọ trì bài kệ về Nhứt Dạ Hiền-giả. Này Tỷ-kheo, hãy học tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền-giả. Này Tỷ-kheo, hãy học cho thuần thục tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền-giả. Này Tỷ-kheo, hãy thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền-giả. Vì rằng, này Tỷ-kheo, tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền-giả là liên hệ đến mục đích và căn bản của Phạm hạnh.
Thiên thần ấy nói như vậy. Sau khi nói vậy, vị ấy biến mất ở đấy. Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết giảng cho con tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền-giả!
4. - Vậy này Tỷ-kheo, hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ nói.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn-giả Samiddhi vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
5. Quá khứ không truy tìm,
Tương lai không ước vọng,
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến.
Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính ở đây,
Không động, không rung chuyển,
Biết vậy, nên tu tập.
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai?
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết.
Trú như vậy nhiệt tâm,
Ðêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ Hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.
6. Thế Tôn nói như vậy. Sau khi nói như vậy, Thiện Thệ từ chỗ ngồi đứng dậy và đi vào tịnh-xá,
7. Rồi các Tỷ-kheo ấy, sau khi Thế Tôn đi không bao lâu, liền suy nghĩ: "Này chư Hiền, Thế Tôn sau khi thuyết giảng phần tổng thuyết một cách vắn tắt cho chúng ta, không giải nghĩa một cách rộng rãi, từ chỗ ngồi đứng dậy và đi vào tịnh-xá:
Quá khứ không truy tìm,
Tương lai không ước vọng,
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến.
Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính ở đây,
Không động, không rung chuyển,
Biết vậy, nên tu tập.
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai?
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết.
Trú như vậy nhiệt tâm,
Ðêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ Hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.
Nay không biết ai có thể giải nghĩa một cách rộng rãi tổng thuyết này, phần này chỉ được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không được giải nghĩa một cách rộng rãi?"
Rồi các Tỷ-kheo ấy suy nghĩ như sau: "Tôn-giả Mahākaccāna (Ðại Ca-chiên-diên) này đã được Thế Tôn tán thán và được các đồng Phạm hạnh có trí kính trọng; Tôn-giả Mahākaccāna có thể giải nghĩa một cách rộng rãi tổng thuyết này, phần này chỉ được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không giải nghĩa một cách rộng rãi. Vậy chúng ta hãy đến Tôn-giả Mahākaccāna, sau khi đến chúng ta hãy hỏi Tôn-giả Mahākaccāna về ý nghĩa này".
8. Rồi các Tỷ-kheo ấy đi đến Tôn-giả Mahākaccāna, sau khi đến nói lên với Tôn-giả Mahākaccāna những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy thưa với Tôn-giả Mahākaccāna:
- Thưa Hiền-giả Kaccāna, Thế Tôn sau khi đọc tổng thuyết này, không giải thích ý nghĩa một cách rộng rãi, từ chỗ ngồi đứng dậy và đi vào tịnh-xá:
Quá khứ không truy tìm,
Tương lai không ước vọng,
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến.
Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính ở đây,
Không động, không rung chuyển,
Biết vậy, nên tu tập.
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai?
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết.
Trú như vậy nhiệt tâm,
Ðêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ Hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.
Nay không biết ai có thể giải nghĩa một cách rộng rãi tổng thuyết này, phần này chỉ được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không được giải nghĩa một cách rộng rãi?
Rồi này Hiền-giả Kaccāna, chúng tôi suy nghĩ như sau: "Tôn-giả Mahākaccāna này đã được Thế Tôn tán thán và được các đồng Phạm hạnh có trí kính trọng; Tôn-giả Mahākaccāna có thể giải nghĩa một cách rộng rãi tổng thuyết này, phần này chỉ được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không giải nghĩa một cách rộng rãi. Vậy chúng ta hãy đến Tôn-giả Mahākaccāna, sau khi đến chúng ta hãy hỏi Tôn-giả Mahākaccāna về ý nghĩa này". Tôn-giả Mahākaccāna hãy giải thích cho (chúng tôi).
9. - Này chư Hiền, ví như một người cần thiết lõi cây, tìm cầu lõi cây, đang đi tìm cầu lõi cây, đứng trước một cây lớn có lõi cây. Người ấy bỏ rễ, bỏ thân cây, nghĩ rằng lõi cây cần phải tìm trong các nhánh cây, lá cây. Cũng vậy, là việc làm của chư Tôn-giả. Chư Tôn-giả đứng trước mặt Thế Tôn, chư Tôn-giả lại vượt qua Thế Tôn, và nghĩ rằng cần phải hỏi tôi về ý nghĩa này. Nhưng này chư Hiền, Thế Tôn biết những gì cần biết, thấy những gì cần thấy, bậc có mắt, bậc Trí giả, bậc Pháp giả, bậc Phạm thiên, bậc Thuyết giả, bậc Tuyên thuyết giả, bậc dẫn đến mục đích, bậc đem cho bất tử, bậc Pháp chủ, bậc Như Lai. Nay đã đến thời, chư Hiền hãy đến hỏi Thế Tôn về ý nghĩa này. Thế Tôn-giải thích cho chư Hiền như thế nào, chư Hiền hãy như vậy thọ trì.
10. - Thưa Hiền-giả Kaccāna, chắc chắn Thế Tôn biết những gì cần biết, thấy những gì cần thấy, bậc có mắt, bậc Trí giả, bậc Pháp giả, bậc Phạm thiên, bậc Thuyết giả, bậc Tuyên thuyết giả, bậc dẫn đến mục đích, bậc đem cho bất tử, bậc Pháp chủ, bậc Như Lai. Nay đã đến thời chúng tôi đến hỏi Thế Tôn về ý nghĩa này. Thế Tôn-giải thích cho chúng tôi như thế nào, chúng tôi sẽ như vậy thọ trì. Nhưng Tôn-giả Mahākaccāna được Thế Tôn tán thán, được các vị đồng Phạm hạnh kính trọng. Tôn-giả Mahākaccāna có thể giải thích một cách rộng rãi tổng thuyết này, phần chỉ được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không được giải nghĩa một cách rộng rãi. Mong Tôn-giả Mahākaccāna giải thích cho (chúng tôi), nếu Tôn-giả không cảm thấy phiền phức.
11. - Vậy chư Hiền, hãy nghe và suy nghiệm kỹ, tôi sẽ nói.
- Thưa vâng, Hiền-giả.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn-giả Mahākaccāna. Tôn-giả Mahākaccāna nói như sau:
12. - Này Hiền-giả, phần tổng thuyết Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không giải nghĩa một cách rộng rãi, từ chỗ ngồi đứng dậy và đã đi vào trong tịnh-xá:
Quá khứ không truy tìm,
Tương lai không ước vọng,
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến.
Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính ở đây,
Không động, không rung chuyển,
Biết vậy, nên tu tập.
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai?
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết.
Trú như vậy nhiệt tâm,
Ðêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ Hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.
Về phần tổng thuyết này chỉ được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không được giải nghĩa một cách rộng rãi, này chư Hiền, tôi hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như sau:
13. Này chư Hiền, thế nào là truy tìm quá khứ?
"Mắt của tôi trong thời quá khứ là như vậy, các sắc pháp là như vậy", và thức ở đây bị dục và ái trói chặt. Vì thức bị dục và ái trói chặt, vị ấy hân hoan trong ấy. Vì hân hoan trong ấy, vị ấy truy tìm quá khứ.
"Tai của tôi trong quá khứ là như vậy, các tiếng là như vậy", và thức ở đây bị dục và ái trói chặt. Vì thức bị dục và ái trói chặt, vị ấy hân hoan trong ấy. Vì hân hoan trong ấy, vị ấy truy tìm quá khứ.
"Mũi của tôi trong quá khứ là như vậy, các hương là như vậy", và thức ở đây bị dục và ái trói chặt. Vì thức bị dục và ái trói chặt, vị ấy hân hoan trong ấy. Vì hân hoan trong ấy, vị ấy truy tìm quá khứ.
"Lưỡi của tôi trong quá khứ là như vậy, các vị là như vậy", và thức ở đây bị dục và ái trói chặt. Vì thức bị dục và ái trói chặt, vị ấy hân hoan trong ấy. Vì hân hoan trong ấy, vị ấy truy tìm quá khứ.
"Thân của tôi trong quá khứ là như vậy, các xúc là như vậy", và thức ở đây bị dục và ái trói chặt. Vì thức bị dục và ái trói chặt, vị ấy hân hoan trong ấy. Vì hân hoan trong ấy, vị ấy truy tìm quá khứ.
"Ý của tôi trong quá khứ là như vậy, các pháp là như vậy", và thức ở đây, bị dục và ái trói chặt. Vì rằng thức bị dục và ái trói chặt, vị ấy hân hoan trong ấy. Vì hân hoan trong ấy, vị ấy truy tìm quá khứ.
Như vậy, này chư Hiền, là truy tìm quá khứ.
14. Và này chư Hiền, thế nào là không truy tìm quá khứ?
"Mắt của tôi trong thời quá khứ là như vậy, các sắc pháp là như vậy", và thức ở đây không bị dục và ái trói chặt. Vì thức không bị dục và ái trói chặt, vị ấy không hân hoan trong ấy. Vì không hân hoan trong ấy, vị ấy không truy tìm quá khứ.
"Tai của tôi trong quá khứ là như vậy, các tiếng là như vậy", và thức ở đây không bị dục và ái trói chặt. Vì thức không bị dục và ái trói chặt, vị ấy không hân hoan trong ấy. Vì không hân hoan trong ấy, vị ấy không truy tìm quá khứ.
"Mũi của tôi trong quá khứ là như vậy, các hương là như vậy", và thức ở đây không bị dục và ái trói chặt. Vì thức không bị dục và ái trói chặt, vị ấy không hân hoan trong ấy. Vì không hân hoan trong ấy, vị ấy không truy tìm quá khứ.
"Lưỡi của tôi trong quá khứ là như vậy, các vị là như vậy", và thức ở đây không bị dục và ái trói chặt. Vì thức không bị dục và ái trói chặt, vị ấy không hân hoan trong ấy. Vì không hân hoan trong ấy, vị ấy không truy tìm quá khứ.
"Thân của tôi trong quá khứ là như vậy, các xúc là như vậy", và thức ở đây không bị dục và ái trói chặt. Vì thức không bị dục và ái trói chặt, vị ấy không hân hoan trong ấy. Vì không hân hoan trong ấy, vị ấy không truy tìm quá khứ.
"Ý của tôi trong quá khứ là như vậy, các pháp là như vậy", và thức ở đây không bị dục và ái trói chặt. Vì thức không bị dục và ái trói chặt, vị ấy không hân hoan trong ấy. Vì không hân hoan trong ấy, vị ấy không truy tìm quá khứ.
Như vậy, này chư Hiền, là không truy tìm quá khứ.
15. Và này chư Hiền, thế nào là ước vọng tương lai?
"Mong rằng mắt của tôi trong tương lai sẽ là như vậy, các sắc pháp là như vậy", và vị ấy hướng tâm lấy cho được cái gì chưa được. Vì duyên hướng tâm như vậy, vị ấy hân hoan trong ấy. Do hân hoan trong ấy, vị ấy ước vọng tương lai.
"Mong rằng tai của tôi trong tương lai sẽ là như vậy, các tiếng là như vậy", và vị ấy hướng tâm lấy cho được cái gì chưa được. Vì duyên hướng tâm như vậy, vị ấy hân hoan trong ấy. Do hân hoan trong ấy, vị ấy ước vọng tương lai.
"Mong rằng mũi của tôi trong tương lai sẽ là như vậy, các hương là như vậy", và vị ấy hướng tâm lấy cho được cái gì chưa được. Vì duyên hướng tâm như vậy, vị ấy hân hoan trong ấy. Do hân hoan trong ấy, vị ấy ước vọng tương lai.
"Mong rằng lưỡi của tôi trong tương lai sẽ là như vậy, các vị là như vậy", và vị ấy hướng tâm lấy cho được cái gì chưa được. Vì duyên hướng tâm như vậy, vị ấy hân hoan trong ấy. Do hân hoan trong ấy, vị ấy ước vọng tương lai.
"Mong rằng thân của tôi trong tương lai sẽ là như vậy, các xúc là như vậy", và vị ấy hướng tâm lấy cho được cái gì chưa được. Vì duyên hướng tâm như vậy, vị ấy hân hoan trong ấy. Do hân hoan trong ấy, vị ấy ước vọng tương lai.
"Mong rằng ý của tôi trong tương lai sẽ là như vậy, các pháp là như vậy", và vị ấy hướng tâm lấy cho được cái gì chưa được. Vì duyên hướng tâm như vậy, vị ấy hân hoan trong ấy. Do hân hoan trong ấy, vị ấy ước vọng tương lai.
Như vậy, này chư Hiền, là ước vọng tương lai.
16. Và này chư Hiền, thế nào là không ước vọng tương lai? "Mong rằng mắt của tôi trong tương lai sẽ là như vậy, các sắc pháp là như vậy", vị ấy không hướng tâm lấy cho được cái gì chưa được. Do duyên không hướng tâm, vị ấy không hân hoan trong ấy, vị ấy không có ước vọng tương lai.
"Mong rằng tai của tôi trong tương lai sẽ là như vậy, các tiếng là như vậy", vị ấy không hướng tâm lấy cho được cái gì chưa được. Do duyên không hướng tâm, vị ấy không hân hoan trong ấy, vị ấy không có ước vọng tương lai.
"Mong rằng mũi của tôi trong tương lai sẽ là như vậy, các hương là như vậy", vị ấy không hướng tâm lấy cho được cái gì chưa được. Do duyên không hướng tâm, vị ấy không hân hoan trong ấy, vị ấy không có ước vọng tương lai.
"Mong rằng lưỡi của tôi trong tương lai sẽ là như vậy, các vị là như vậy", vị ấy không hướng tâm lấy cho được cái gì chưa được. Do duyên không hướng tâm, vị ấy không hân hoan trong ấy, vị ấy không có ước vọng tương lai.
"Mong rằng thân của tôi trong tương lai sẽ là như vậy, các xúc là như vậy", vị ấy không hướng tâm lấy cho được cái gì chưa được. Do duyên không hướng tâm, vị ấy không hân hoan trong ấy, vị ấy không có ước vọng tương lai.
"Mong rằng ý của tôi trong tương lai sẽ là như vậy, các pháp là như vậy", vị ấy không hướng tâm lấy cho được cái gì chưa được. Do duyên không hướng tâm, vị ấy không hân hoan trong ấy. Do không hân hoan trong ấy, vị ấy không có ước vọng tương lai.
Như vậy, này chư Hiền, là không ước vọng tương lai.
17. Và này chư Hiền, thế nào là bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại?
Này chư Hiền, nếu mắt và các sắc pháp, cả hai đều có mặt trong hiện tại này, và thức của vị ấy bị dục và ái trói chặt cũng trong hiện tại này. Vì thức của vị ấy bị dục và ái trói chặt, vị ấy hân hoan trong ấy. Do hân hoan trong ấy, vị ấy bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.
Này chư Hiền, nếu tai và các tiếng, cả hai đều có mặt trong hiện tại này, và thức của vị ấy bị dục và ái trói chặt cũng trong hiện tại này. Vì thức của vị ấy bị dục và ái trói chặt, vị ấy hân hoan trong ấy. Do hân hoan trong ấy, vị ấy bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.
Này chư Hiền, nếu mũi và các hương, cả hai đều có mặt trong hiện tại này, và thức của vị ấy bị dục và ái trói chặt cũng trong hiện tại này. Vì thức của vị ấy bị dục và ái trói chặt, vị ấy hân hoan trong ấy. Do hân hoan trong ấy, vị ấy bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.
Này chư Hiền, nếu lưỡi và các vị, cả hai đều có mặt trong hiện tại này, và thức của vị ấy bị dục và ái trói chặt cũng trong hiện tại này. Vì thức của vị ấy bị dục và ái trói chặt, vị ấy hân hoan trong ấy. Do hân hoan trong ấy, vị ấy bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.
Này chư Hiền, nếu thân và các xúc, cả hai đều có mặt trong hiện tại này, và thức của vị ấy bị dục và ái trói chặt cũng trong hiện tại này. Vì thức của vị ấy bị dục và ái trói chặt, vị ấy hân hoan trong ấy. Do hân hoan trong ấy, vị ấy bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.
Này chư Hiền nếu ý và các pháp, cả hai đều có mặt trong hiện tại này, và thức của vị ấy bị dục và ái trói chặt cũng trong hiện tại này. Vì thức của vị ấy bị dục và ái trói chặt, vị ấy hân hoan trong ấy. Do hân hoan trong ấy, vị ấy bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.
Như vậy, này chư Hiền, là bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.
18. Và này chư Hiền, thế nào là không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại?
Này chư Hiền, nếu mắt và các sắc pháp, cả hai đều có mặt trong hiện tại này, và thức của vị ấy không bị dục và ái trói chặt cũng trong hiện tại này. Vì thức của vị ấy không bị dục và ái trói chặt, vị ấy không hân hoan trong ấy. Do không hân hoan trong ấy, vị ấy không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.
Này chư Hiền, nếu tai và các tiếng, cả hai đều có mặt trong hiện tại này, và thức của vị ấy không bị dục và ái trói chặt cũng trong hiện tại này. Vì thức của vị ấy không bị dục và ái trói chặt, vị ấy không hân hoan trong ấy. Do không hân hoan trong ấy, vị ấy không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.
Này chư Hiền, nếu mũi và các hương, cả hai đều có mặt trong hiện tại này, và thức của vị ấy không bị dục và ái trói chặt cũng trong hiện tại này. Vì thức của vị ấy không bị dục và ái trói chặt, vị ấy không hân hoan trong ấy. Do không hân hoan trong ấy, vị ấy không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.
Này chư Hiền, nếu lưỡi và các vị, cả hai đều có mặt trong hiện tại này, và thức của vị ấy không bị dục và ái trói chặt cũng trong hiện tại này. Vì thức của vị ấy không bị dục và ái trói chặt, vị ấy không hân hoan trong ấy. Do không hân hoan trong ấy, vị ấy không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.
Này chư Hiền, nếu thân và các xúc, cả hai đều có mặt trong hiện tại này, và thức của vị ấy không bị dục và ái trói chặt cũng trong hiện tại này. Vì thức của vị ấy không bị dục và ái trói chặt, vị ấy không hân hoan trong ấy. Do không hân hoan trong ấy, vị ấy không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.
Này chư Hiền, nếu ý và các pháp, cả hai đều có mặt trong hiện tại này, và thức của vị ấy không bị dục và ái trói chặt cũng trong hiện tại này. Vì thức của vị ấy không bị dục và ái trói chặt, vị ấy không hân hoan trong ấy. Do không hân hoan trong ấy, vị ấy không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.
Như vậy, này chư Hiền là không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.
19. Này chư Hiền, phần tổng thuyết Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không giải nghĩa một cách rộng rãi, từ chỗ ngồi đứng dậy và đã đi vào trong tịnh-xá:
Quá khứ không truy tìm,
Tương lai không ước vọng,
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến.
Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính ở đây,
Không động, không rung chuyển,
Biết vậy, nên tu tập.
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai?
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết.
Trú như vậy nhiệt tâm,
Ðêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ Hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.
Phần tổng thuyết này, này chư Hiền, được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không được giải nghĩa một cách rộng rãi; này chư Hiền, tôi hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy. Và nếu chư Tôn-giả muốn, hãy đi đến Thế Tôn và hỏi ý nghĩa này. Thế Tôn-giải thích các Tôn-giả như thế nào, hãy như vậy thọ trì.
20. Rồi các Tỷ-kheo ấy, sau khi hoan hỷ tín thọ lời Tôn-giả Mahākaccāna giảng, từ chỗ ngồi đứng dậy đi đến Thế Tôn; sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn sau khi đọc phần tổng thuyết một cách vắn tắt cho chúng con, không giải nghĩa một cách rộng rãi, từ chỗ ngồi đứng dậy, và đi vào tịnh-xá:
Quá khứ không truy tìm,
Tương lai không ước vọng,
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến.
Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính ở đây,
Không động, không rung chuyển,
Biết vậy, nên tu tập.
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai?
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết.
Trú như vậy nhiệt tâm,
Ðêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ Hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.
Bạch Thế Tôn, sau khi Thế Tôn đi không bao lâu, chúng con suy nghĩ như sau: "Thế Tôn sau khi đọc phần tổng thuyết một cách vắn tắt cho chúng con, không giải nghĩa một cách rộng rãi, và đã đi vào tịnh-xá:
Quá khứ không truy tìm,
Tương lai không ước vọng,
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến.
Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính ở đây,
Không động, không rung chuyển,
Biết vậy, nên tu tập.
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai?
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết.
Trú như vậy nhiệt tâm,
Ðêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ Hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.
Nay không biết ai có thể giải nghĩa một cách rộng rãi tổng thuyết này, phần này chỉ được Thế Tôn đọc lên một cách vắn tắt, không được giải nghĩa một cách rộng rãi".
Rồi bạch Thế Tôn, chúng con suy nghĩ như sau: "Tôn-giả Mahākaccāna này đã được Thế Tôn tán thán và được các đồng Phạm hạnh có trí kính trọng; Tôn-giả Mahākaccāna có thể giải nghĩa một cách rộng rãi tổng thuyết này, phần này chỉ được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không giải nghĩa một cách rộng rãi. Vậy chúng ta hãy đến Tôn-giả Mahākaccāna, sau khi đến chúng ta hãy hỏi Tôn-giả Mahākaccāna về ý nghĩa này".
Rồi bạch Thế Tôn, chúng con đi đến Tôn-giả Mahākaccāna, sau khi đến, chúng con hỏi Tôn-giả Mahākaccāna về ý nghĩa này. Ý nghĩa của những chữ ấy đã được Tôn-giả Mahākaccāna giải thích cho chúng con với những phương pháp này, các những câu này, với những chữ này.
21. - Này các Tỷ-kheo, Mahākaccāna là bậc Hiền trí. Này các Tỷ-kheo, Mahākaccāna là bậc Ðại trí tuệ. Này các Tỷ-kheo, nếu các ông hỏi Ta về ý nghĩa này, Ta cũng giải thích cho các ông như vậy, như Mahākaccāna đã giải thích. Thật sự ý nghĩa ấy là vậy, và các ông hãy thọ trì như vậy.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.




134. Kinh Lomasakaṅgiya
Nhất Dạ Hiền-giả
(Lomasakaṅgiyabhaddekarattasutta)

1. Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthī (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại tịnh-xá ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc).
2. Lúc bấy giờ, Tôn-giả Lomasakaṅgiya trú ở giữa dòng họ Sakya (Thích-ca), tại Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), ở tịnh-xá Nigrodha (Ni-câu-luật viên). Rồi Thiên tử Candana sau khi đêm vừa mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng cả vùng tịnh-xá Nigrodha, đi đến Tôn-giả Lomasakaṅgiya, sau khi đến liền đứng một bên. Ðứng một bên, Thiên tử Candana thưa với Tôn-giả Lomasakaṅgiya:
- Này Tỷ-kheo, ngài có thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền-giả không?
- Này Hiền-giả, tôi không thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền-giả. Này Hiền-giả, Hiền-giả có thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền-giả không?
- Này Tỷ-kheo, tôi cũng không thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền-giả. Nhưng này Tỷ-kheo, ngài có thọ trì bài kệ về Nhứt Dạ Hiền-giả không?
- Này Hiền-giả, tôi không thọ trì bài kệ về Nhứt Dạ Hiền-giả. Này Hiền-giả, Hiền-giả có thọ trì bài kệ về Nhứt Dạ Hiền-giả không?
- Này Tỷ-kheo, tôi có thọ trì bài kệ về Nhứt Dạ Hiền-giả.
- Này Hiền-giả, Hiền-giả thọ trì như thế nào bài kệ về Nhứt Dạ Hiền-giả?
- Một thời, này Tỷ-kheo, Thế Tôn trú giữa chư Thiên Tam thập tam thiên, dưới cây Pāricchattaka (Trú-độ thọ hay là cây san hô), trên hòn đá Paṇḍukambala (Vô-cấu-bạch thạch – hòn đá làm ngai của vua trời Sakka – người hiệu đính). Tại đấy, Thế Tôn đọc lên tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền-giả cho chư Thiên ở Tam thập tam thiên:
3. Quá khứ không truy tìm,
Tương lai không ước vọng,
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến.
Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính ở đây,
Không động, không rung chuyển,
Biết vậy, nên tu tập.
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai?
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết.
Trú như vậy nhiệt tâm,
Ðêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ Hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.
Này Tỷ-kheo, tôi thọ trì về bài kệ Nhứt Dạ Hiền-giả như vậy. Này Tỷ-kheo, hãy học tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền-giả. Này Tỷ-kheo, hãy học cho thuần thục tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền-giả. Này Tỷ-kheo, hãy thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền-giả. Vì rằng này Tỷ-kheo, tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền-giả liên hệ đến mục đích, là căn bản của Phạm hạnh.
(Thiên tử Candana nói như vậy. Sau khi nói vậy, vị ấy biến mất tại chỗ đấy. – người hiệu đính)
4. Rồi Tôn-giả Lomasakaṅgiya, sau khi đêm ấy đã mãn, dọn dẹp sàng tọa, lấy y áo và lên đường đi đến Sāvatthī. Tuần tự du hành, Tôn-giả đi đến Sāvatthī, Jetavana, tịnh-xá ông Anāthapiṇḍika, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn-giả Lomasakaṅgiya bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, một thời con trú giữa dòng họ Sakya, tại Kapilavatthu, tịnh-xá ông Anāthapiṇḍika. Rồi bạch Thế Tôn, một Thiên tử, sau khi đêm vừa mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng cả vùng tịnh-xá Nigrodha, đến con và đứng một bên. Ðứng một bên, bạch Thế Tôn, Thiên tử ấy thưa với con:
"- Này Tỷ-kheo, ngài có thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền-giả không?"
Ðược hỏi vậy, bạch Thế Tôn, con nói với Thiên tử ấy:
"- Này Hiền-giả, tôi không thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền-giả. Này Hiền-giả, Hiền-giả có thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền-giả không?"
"- Này Tỷ-kheo, tôi cũng không thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền-giả. Nhưng này Tỷ-kheo, ngài có thọ trì bài kệ về Nhứt Dạ Hiền-giả không?"
"- Này Hiền-giả, tôi không thọ trì bài kệ về Nhứt Dạ Hiền-giả. Này Hiền-giả, Hiền-giả có thọ trì bài kệ về Nhứt Dạ Hiền-giả không?"
"- Này Tỷ-kheo, tôi có thọ trì bài kệ về Nhứt Dạ Hiền-giả".
"- Này Hiền-giả, Hiền-giả thọ trì như thế nào bài kệ về Nhứt Dạ Hiền-giả?"
"- Một thời, này Tỷ-kheo, Thế Tôn trú giữa chư Thiên Tam thập tam thiên, dưới cây Pāricchattaka, trên hòn đá Paṇḍukambala. Tại đấy, Thế Tôn đọc lên tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền-giả cho chư Thiên ở Tam thập tam thiên:
Quá khứ không truy tìm,
Tương lai không ước vọng,
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến.
Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính ở đây,
Không động, không rung chuyển,
Biết vậy, nên tu tập.
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai?
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết.
Trú như vậy nhiệt tâm,
Ðêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ Hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.
Này Tỷ-kheo, tôi thọ trì về bài kệ Nhứt Dạ Hiền-giả như vậy. Này Tỷ-kheo, hãy học tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền-giả. Này Tỷ-kheo, hãy học cho thuần thục tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền-giả. Này Tỷ-kheo, hãy thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền-giả. Vì rằng này Tỷ-kheo, tổng thuyết và biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền-giả liên hệ đến mục đích, là căn bản của Phạm hạnh".
Bạch Thế Tôn, Thiên tử ấy nói như vậy. Nói như vậy xong, vị ấy biến mất tại đấy. Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn-giảng cho con tổng thuyết và biệt thuyết về bài kệ Nhứt Dạ Hiền-giả.
5. - Này Tỷ-kheo, ông có biết Thiên tử ấy không?
- Bạch Thế Tôn, con không biết Thiên tử ấy.
- Này Tỷ-kheo, Thiên tử ấy tên là Candana. Này Tỷ-kheo, Candana là Thiên tử, sau khi chú tâm, sau khi tác ý, sau khi tập trung nội tâm, lóng tai nghe pháp. Vậy này Tỷ-kheo, hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ nói.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn, Tôn-giả Lomasakaṅgiya vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
6. Quá khứ không truy tìm,
Tương lai không ước vọng,
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến.
Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính ở đây,
Không động, không rung chuyển,
Biết vậy, nên tu tập.
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai?
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết.
Trú như vậy nhiệt tâm,
Ðêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ Hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.
7. Và này Tỷ-kheo, thế nào là truy tìm quá khứ? Vị ấy nghĩ: "Như vậy là sắc của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Như vậy là thọ của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Như vậy là tưởng của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Như vậy là hành của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Như vậy, là thức của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này Tỷ-kheo, là truy tìm quá khứ.
8. Và này Tỷ-kheo, thế nào là không truy tìm quá khứ? Vị ấy nghĩ: "Như vậy là sắc của tôi trong quá khứ", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Như vậy là thọ của tôi trong quá khứ", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Như vậy là tưởng của tôi trong quá khứ", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Như vậy là hành của tôi trong quá khứ", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Như vậy là thức của tôi trong quá khứ", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này Tỷ-kheo, là không truy tìm quá khứ.
9. Và này Tỷ-kheo, thế nào ước vọng trong tương lai? Vị ấy nghĩ: "Mong rằng như vậy sẽ là sắc của tôi trong tương lai", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Mong rằng như vậy sẽ là thọ của tôi trong tương lai", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Mong rằng như vậy là tưởng của tôi trong tương lai", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Mong rằng như vậy là hành của tôi trong tương lai", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Mong rằng như vậy là thức của tôi trong tương lai", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này Tỷ-kheo, là ước vọng trong tương lai.
10. Và này Tỷ-kheo, thế nào là không ước vọng trong tương lai? Vị ấy nghĩ: "Mong rằng như vậy sẽ là sắc của tôi trong tương lai", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Mong rằng như vậy sẽ là thọ của tôi trong tương lai", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Mong rằng như vậy sẽ là tưởng của tôi trong tương lai", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Mong rằng như vậy sẽ là hành của tôi trong tương lai", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. "Mong rằng như vậy sẽ là thức của tôi trong tương lai", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này Tỷ-kheo, là không ước vọng trong tương lai.
11. Và này Tỷ-kheo, như thế nào là bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại? Ở đây, này Tỷ-kheo, có kẻ vô văn phàm phu không đi đến các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh; không đi đến các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân; quán sắc là tự ngã, hay quán tự ngã là có sắc, hay quán sắc là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong sắc; hay vị ấy quán thọ là tự ngã, hay quán tự ngã là có thọ, hay quán thọ là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong thọ; hay vị ấy quán tưởng là tự ngã, hay quán tự ngã là có tưởng, hay vị ấy quán tưởng là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong tưởng; hay vị ấy quán hành là tự ngã, hay vị ấy quán tự ngã là có hành, hay vị ấy quán hành là trong tự ngã, hay vị ấy quán tự ngã là trong hành; hay vị ấy quán thức là tự ngã, hay quán tự ngã là có thức, hay quán thức là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong thức. Như vậy, này Tỷ-kheo, là bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.
12. Và này Tỷ-kheo, thế nào là không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại? Ở đây, này Tỷ-kheo, có vị Ða văn Thánh đệ tử đi đến các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, đi đến các bậc Chân nhân, thuần thục pháp các bậc Chân nhân, tu tập pháp các bậc Chân nhân. Vị này không quán sắc là tự ngã, không quán tự ngã là có sắc, không quán sắc trong tự ngã, không quán tự ngã trong sắc; không quán thọ là tự ngã, không quán tự ngã là có thọ, không quán thọ là trong tự ngã, không quán tự ngã trong thọ; không quán tưởng là tự ngã, không quán tự ngã là có tưởng, không quán tưởng là trong tự ngã, không quán tự ngã trong tưởng; không quán hành là tự ngã, không quán tự ngã là có hành, không quán hành là trong tự ngã, không quán tự ngã trong hành; không quán thức là tự ngã, không quán tự ngã là có thức, không quán thức trong tự ngã, không quán tự ngã trong thức. Như vậy, này Tỷ-kheo, là không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.
13. Quá khứ không truy tìm,
Tương lai không ước vọng,
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến.
Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính ở đây,
Không động, không rung chuyển,
Biết vậy, nên tu tập.
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai?
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết.
Trú như vậy nhiệt tâm,
Ðêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ Hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn-giả Lomasakaṅgiya hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.