Ngọc Ma-ni (hay Có Chủ Ý): Paṭhamasañcetanikasuttaṃ (Tăng Chi Bộ)
1. - Ta tuyên bố rằng, này các Tỷ-kheo, các nghiệp đã tư niệm, đã làm, đã tích tập, nếu
không cảm thọ (kết quả) thời không có chấm dứt, dầu kết quả ấy sanh khởi ngay trong đời hiện tại hay trong đời sau. Ta tuyên bố rằng, này các Tỷ-kheo, các nghiệp đã tư niệm, đã làm, đã tích tập, nếu không cảm thọ (kết
quả), thời khổ không có
thể chấm dứt được.
Ở đây, này các Tỷ-kheo:
· Ba
phần là lầm lỗi, phạm tội của thân
nghiệp đã bất thiện tư niệm, dẫn đến khổ, đưa đến khổ dị thục.
· Bốn
phần là lầm lỗi, phạm tội của ngữ
nghiệp, đã bất thiện tư niệm, dẫn đến khổ, đưa đến khổ dị thục.
· Ba
phần là lầm lỗi, phạm tội của ý
nghiệp, đã bất thiện tư niệm, dẫn đến khổ, đưa đến khổ dị thục.
2.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ba phần lầm lỗi, phạm tội của thân nghiệp, đã bất thiện tư niệm,
dẫn đến khổ, đưa đến khổ dị thục?
· Ở
đây, này các Tỷ-kheo, có người sát
sanh, hung bạo, tay lấm máu, tâm chuyên sát hại đả
thương, tâm không từ bi đối với tất cả các loài hữu tình, các sinh vật.
· Lấy của không cho,
bất cứ tài vật gì của người khác, hoặc tại thôn làng, hoặc tại rừng núi, không
cho người ấy, người ấy lấy trộm tài vật ấy.
· Sống tà hạnh trong các dục,
tà hạnh với hạng nữ nhân có mẹ che chở, có cha che chở, có mẹ cha che chở, có
anh em che chở, có chị che chở, có bà con che chở, có pháp che chở, đã có
chồng, được hình phạt gậy gộc bảo vệ, cho đến những nữ nhân được trang sức bằng
vòng hoa (đám cưới).
Như vậy, này các Tỷ-kheo, ba phần là lầm lỗi
phạm tội của thân nghiệp, đã bất thiện tư niệm, dẫn đến khổ, đưa đến khổ dị
thục.
3.
Như thế nào, này các Tỷ-kheo, bốn phần là lầm lỗi, phạm tội của ngữ nghiệp, đã bất thiện tư niệm,
dẫn đến khổ, đưa đến khổ dị thục?
· Người ấy nói láo,
đến chỗ tập hội, hay đến chỗ chúng hội, hay đến giữa các thân tộc, hay đến giữa
các tổ hợp, hay đến giữa các vương tộc, khi bị dẫn xuất làm chứng và được hỏi: "Này người kia, hãy nói những gì người
biết"; dầu cho vị ấy không biết, vị ấy nói: "Tôi biết"; dầu
cho vị ấy biết, vị ấy nói: "Tôi không biết". Hay dầu cho vị ấy không
thấy, vị ấy nói: "Tôi có thấy"; hay dầu cho vị ấy thấy, vị ấy nói:
"Tôi không thấy". Như vậy lời nói của người ấy trở thành cố ý nói láo, hoặc nguyên nhân
vì mình, hoặc nguyên nhân vì người, hoặc nguyên nhân vì một vài quyền lợi.
· Người ấy là người nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, đến chỗ kia nói, để sanh chia rẽ ở những
người này; nghe điều gì ở chỗ kia, đi nói với những người này, để
sanh chia rẽ ở những người kia. Như vậy, vị ấy ly gián
những kẻ hòa hợp, hay xúi giục những kẻ ly gián, ưa thích chia rẽ, vui thích
chia rẽ, thích thú chia rẽ, nói những lời đưa đến chia rẽ.
· Và người ấy nói lời thô ác, bất cứ lời gì thô bạo, thô tục, khiến người đau khổ, khiến người
tức giận, liên hệ đến phẫn nộ, không đưa đến Thiền định. Người ấy nói những lời
như vậy.
· Và người ấy nói những lời phù phiếm, nói phi thời, nói những lời phi chơn, nói những lời không lợi
ích, nói những lời phi pháp, nói những lời phi luật, nói những lời không đáng
gìn giữ. Vì nói phi thời, nên lời nói không có thuận lý, không có mạch lạc, hệ
thống, không có lợi ích.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, bốn phần là lầm lỗi,
phạm tội của ngữ nghiệp, đã bất thiện tư niệm, dẫn đến khổ, đưa đến khổ dị
thục.
4.
Như thế nào, này các Tỷ-kheo, ba phần là lầm lỗi, và phạm tội của ý nghiệp, đã bất thiện tư niệm,
dẫn đến khổ, đưa đến khổ dị thục?
· Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người ấy có tham ái, tham lam tài vật kẻ khác, nghĩ rằng: "Ôi, mong rằng mọi
tài vật của người khác trở thành của mình".
· Có sân tâm, khởi lên hại ý, hại niệm như
sau: "Mong rằng những loài hữu tình này bị giết, hay bị tàn sát,
hay bị tiêu diệt, hay bị tàn hại, hay mong chúng không còn tồn tại".
· Người ấy có tà kiến,
có tưởng điên đảo, như: "Không có bố thí, không có cúng thí, không
có tế tự, các hành vi thiện ác không có kết quả dị thục, không có đời này,
không có đời sau, không có mẹ, không có cha, không có các loại hóa sanh, trong
đời không có các Sa-môn, Bà-la-môn chân chánh hành trì, chân chánh thành tựu,
sau khi tự mình với thắng trí, giác ngộ đời này và đời sau và tuyên bố".
Như vậy, này các Tỷ-kheo, ba phần là lầm lỗi,
phạm tội của ý nghiệp, đã bất thiện tư niệm, dẫn đến khổ, đưa đến khổ dị thục.
5. Này các Tỷ-kheo, do nhân bất thiện tư niệm, sự lầm lỗi và phạm tội của thân nghiệp có ba phần, các chúng sanh, sau khi thân hoại mạng chung,
sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Hay là này các Tỷ-kheo, do
nhân bất thiện tư niệm, lầm
lỗi phạm tội của ngữ nghiệp
có bốn phần, các chúng sanh, sau
khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Hay là này các Tỷ-kheo, do
nhân bất thiện tư niệm, lầm
lỗi phạm tội của ý nghiệp có
ba phần, các chúng sanh, sau
khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
6. Ví như, này các Tỷ-kheo, một hòn ngọc ma-ni
viên mãn, được quăng lên và rơi xuống chỗ nào, tại chỗ ấy nó khéo an lập. Cũng
vậy, này các Tỷ-kheo, do nhân bất thiện tư niệm, sự lầm lỗi và phạm tội của thân
nghiệp có ba phần, các chúng sanh, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi
dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Hay là này các Tỷ-kheo, do nhân bất thiện tư
niệm, lầm lỗi phạm tội của ngữ nghiệp có bốn phần, các chúng sanh, sau khi thân
hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Hay là này các
Tỷ-kheo, do nhân bất thiện tư niệm, lầm lỗi phạm tội của ý nghiệp có ba phần,
các chúng sanh, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ,
địa ngục.
7.
Ta tuyên bố rằng, này các Tỷ-kheo, các
nghiệp được tư
niệm, được làm, được tích tập, nếu không cảm thọ (kết quả) thời không
có chấm dứt, dầu quả ấy thuộc trong đời hiện tại, hay trong đời sau. Ta
tuyên bố rằng, này các Tỷ-kheo, các
nghiệp được tư
niệm, được làm, được tích tập, nếu không cảm thọ (kết quả) thời khổ không có chấm dứt.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, ba phần là thành đạt của
thân
nghiệp đã thiện tư niệm, dẫn đến lạc, đưa đến lạc dị thục, bốn phần
là thành đạt của ngữ nghiệp đã thiện tư niệm, dẫn đến lạc, đưa đến lạc dị
thục, ba phần là thành đạt của ý nghiệp đã thiện tư niệm,
dẫn đến lạc, đưa đến lạc dị thục.
8.
Và như thế nào, này các Tỷ-kheo, ba phần là thành đạt của thân nghiệp đã thiện tư niệm, dẫn đến lạc, đưa đến lạc dị thục?
· Ở
đây, này các Tỷ-kheo, có người đoạn
tận sát sanh, từ bỏ sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết
tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng
sanh và các loài hữu tình.
· Ðoạn tận lấy của không cho,
từ bỏ lấy của không cho, bất cứ vật gì của người khác, hoặc tại thôn làng, hoặc
tại rừng núi, không cho người ấy, người ấy không lấy trộm tài vật ấy.
· Ðoạn tận sống tà hạnh trong các dục,
không hành tà hạnh với hạng nữ nhân có mẹ che chở, có cha che chở,
có mẹ cha che chở, có anh em che chở, có chị che chở, có bà con che chở, có
pháp che chở, đã có chồng, được hình phạt gậy gộc bảo vệ, cho đến những nữ nhân
được trang sức bằng vòng hoa (đám cưới).
Như vậy, này các Tỷ-kheo, ba phần là thành đạt
của thân nghiệp, dẫn đến lạc, đưa đến lạc dị thục.
9.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là bốn phần là thành đạt của ngữ nghiệp, dẫn đến lạc, đưa đến lạc dị thục?
· Ở đây, này các Tỷ-kheo có người đoạn tận nói láo, từ bỏ nói láo, đến chỗ tập hội hay đến chỗ
chúng hội, hay đến giữa các thân tộc, hay đến giữa các tổ hợp, hay đến giữa các
vương tộc, khi bị dẫn xuất làm chứng và được hỏi: "Này người kia, hãy nói
những gì người biết", nếu biết, người ấy nói: "Tôi biết", nếu
không biết, người ấy nói: "Tôi không biết"; hay nếu không thấy, người
ấy nói: "Tôi không thấy"; nếu thấy, người ấy nói: "Tôi
thấy". Như vậy lời nói của người ấy không trở thành cố ý vọng
ngữ, hoặc nguyên nhân vì mình, hoặc nguyên nhân vì người, hoặc nguyên nhân vì
một vài quyền lợi gì.
· Ðoạn tận lời nói hai lưỡi, từ bỏ nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này,
không đi đến chỗ kia nói, để sanh chia rẽ ở những người này; nghe điều gì ở chỗ
kia, không đi nói với những người này, để sanh chia rẽ ở những người kia. Như
vậy, người ấy sống hòa hợp những kẻ ly gián, tăng trưởng những kẻ hòa hợp,
thích thú hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp.
· Ðoạn tận lời nói thô ác, từ bỏ lời nói thô ác, những lời nói nhu hòa,
êm tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người, vui ý
nhiều người, người ấy nói những lời như vậy.
· Ðoạn tận lời nói phù phiếm, từ bỏ lời nói phù phiếm, nói đúng thời, nói
những lời chân thật, nói những lời có ý nghĩa, nói những lời về chánh Pháp, nói
những lời về Luật, nói những lời đáng được gìn giữ. Vì nói hợp thời, nên lời
nói thuận lý, có mạch lạc, hệ thống, có lợi ích.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, bốn phần là sự thành
đạt của ngữ nghiệp đã thiện tư niệm, dẫn đến lạc, đưa đến lạc dị thục.
10.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ba phần là thành đạt của ý nghiệp đã thiện tư niệm, dẫn đến lạc, đưa đến lạc dị thục?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người không tham ái, không tham lam tài vật của kẻ khác, không có
nghĩ rằng: "Ôi! Mong rằng món tài
vật của người khác trở thành của mình".
Lại có người không có sân tâm, không khởi lên hại ý, hại niệm, nhưng nghĩ rằng: "Mong rằng những
loài hữu tình này sống không thù hận, không oán thù, không nhiễu loạn, được an
lạc, lo nghĩ tự thân".
Có Chánh kiến, không có tư tưởng điên đảo, nghĩ rằng: "Có bố thí, có cúng thí, có tế tự, các
hành vi thiện ác có kết quả dị thục, có đời này, có đời sau, có mẹ, có cha, có
các loại hóa sanh, trong đời có các Sa-môn, Bà-la-môn chân chánh hành trì, chân
chánh thành tựu, sau khi tự mình chứng ngộ với thắng trí đời này và đời sau,
rồi tuyên bố".
Như vậy, này các Tỷ-kheo, ba phần là thành đạt
của ý nghiệp đã thiện tư niệm, dẫn đến lạc, đưa đến lạc dị thục.
11.
Này các Tỷ-kheo, do nhân ba phần là thành đạt của thân nghiệp, đã thiện tư niệm, dẫn đến lạc, đưa đến lạc dị
thục, các chúng sanh sau khi thân hoại mạng chung, được sanh thiện thú, Thiên
giới, cõi đời này. Này các Tỷ-kheo, do nhân bốn phần là thành đạt của ngữ nghiệp, đã thiện tư niệm,
dẫn đến lạc, đưa đến lạc dị thục, các chúng sanh sau khi thân hoại mạng chung,
được sanh thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Này các Tỷ-kheo, do nhân ba phần
là thành đạt của ý nghiệp, đã
thiện tư niệm, dẫn đến lạc, đưa đến lạc dị thục, các chúng sanh sau khi thân
hoại mạng chung, được sanh thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.
12. Ví như, này các Tỷ-kheo, hòn ngọc ma-ni viên
mãn, được quăng lên và rơi xuống chỗ nào, tại chỗ ấy nó khéo an lập. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, do nhân thiện tư
niệm, thành đạt của thân nghiệp có ba phần, các chúng sanh, sau khi thân hoại
mạng chung, sanh vào thiện thú, thiên giới, cõi đời này. Hay là do nhân thiện
tư niệm, thành đạt của ngữ nghiệp có bốn phần, các chúng sanh, sau khi thân
hoại mạng chung, sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Hay là do nhân
thiện tư niệm, thành đạt của ý nghiệp có ba phần, các chúng sanh, sau khi thân
hoại mạng chung, sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.
13.
Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng các
nghiệp đã tư niệm,
đã làm, đã tích tập, nếu chưa lãnh thọ (kết quả) thời không
chấm dứt, dầu cho quả ấy thuộc đời hiện tại, hay trong đời sau. Và này các
Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng các nghiệp
đã tư niệm, đã được làm,
đã được tích tập, nếu chưa lãnh thọ (kết quả) thời khổ không được chấm dứt.
No comments:
Post a Comment