MN 70 – Kinh Kīṭāgiri (Kīṭāgirisutta)
1. Như vầy tôi nghe. Một
thời Thế Tôn du hành ở Kāsi cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Ở đây, Thế Tôn gọi các
Tỷ-kheo:
2. - Này các Tỷ-kheo, Ta ăn, từ bỏ ăn ban đêm. Này các Tỷ-kheo, do ăn, từ bỏ ăn ban đêm, Ta cảm thấy
ít bệnh, ít não, khinh an, có sức lực và an trú. Này các Tỷ-kheo, hãy đến và ăn, từ bỏ ăn ban đêm. Này các
Tỷ-kheo, do ăn, từ bỏ ăn ban đêm, các Ông sẽ cảm thấy ít bệnh, ít não, khinh
an, có sức lực và an trú.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn. - Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
3. Rồi Thế Tôn tiếp tục du hành ở Kāsi và đến một thị trấn xứ Kāsi
tên là Kīṭāgiri. Rồi Thế Tôn ở tại Kīṭāgiri, một thị trấn xứ Kāsi. Lúc bấy giờ Tỷ-kheo Assaji và Punabbasuka đang ở Kīṭāgiri.
4. Rồi một số đông Tỷ-kheo đi đến chỗ Tỷ-kheo Assaji và Tỷ-kheo
Punabbasuka, sau khi đến, nói với Tỷ-kheo Assaji và Tỷ-kheo Punabbasuka như
sau:
- Chư Hiền, Thế Tôn ăn, từ bỏ ăn ban đêm. Cả chúng Tỷ-kheo cũng
vậy. Do ăn, từ bỏ ăn
ban đêm, các vị ấy cảm thấy ít bệnh, ít não, khinh an, có sức lực và an trú. Chư Hiền, hãy đến và ăn, từ bỏ ăn ban đêm. Chư Hiền, do ăn, từ
bỏ ăn ban đêm, chư Hiền sẽ cảm thấy ít bệnh, ít não, khinh an, có sức lực và an
trú.
Ðược nói vậy, Tỷ-kheo Assaji và
Tỷ-kheo Punabbasuka, nói với các Tỷ-kheo ấy:
- Chư Hiền, chúng tôi ăn chiều, ăn sáng, ăn ban ngày và ăn phi
thời. Do chúng tôi
ăn chiều, ăn sáng, ăn ban ngày và ăn phi thời, chúng tôi cảm thấy ít bệnh, ít
não, khinh an, có sức lực và an trú. Sao chúng tôi lại bỏ hiện tại, chạy theo tương lai? Chúng tôi sẽ ăn chiều, ăn sáng, ăn ban ngày và ăn phi thời.
5. Vì các Tỷ-kheo ấy không thể làm cho
Tỷ-kheo Assaji và Tỷ-kheo Punabbasuka chấp thuận, nên các vị ấy đi đến chỗ Thế
Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn, ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một
bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
- Ở đây, bạch Thế Tôn, chúng con đi đến chỗ các Tỷ-kheo Assaji và
Punabbasuka, sau khi đến chúng con nói với Tỷ-kheo Assaji và Tỷ-kheo
Punabbasuka như sau: "Chư Hiền, Thế Tôn ăn, từ bỏ ăn ban đêm. Cả chúng
Tỷ-kheo cũng vậy. Do ăn, từ bỏ ăn ban đêm, các vị ấy cảm thấy ít bệnh, ít não,
khinh an, có sức lực và an trú. Chư Hiền, hãy đến và ăn, từ bỏ ăn ban đêm. Chư
Hiền, do ăn, từ bỏ ăn ban đêm, chư Hiền sẽ cảm thấy ít bệnh, ít não, khinh an,
có sức lực và an trú".
Bạch Thế Tôn, được nói vậy. Tỷ-kheo Assaji và Tỷ-kheo Punabbasuka
nói với chúng con như sau: "Chư Hiền, chúng tôi ăn chiều, ăn sáng, ăn ban
ngày và ăn phi thời. Do chúng tôi ăn chiều, ăn sáng, ăn ban ngày và ăn phi
thời, chúng tôi cảm thấy ít bệnh, ít não, khinh an, có sức lực và an trú. Sao
chúng tôi lại bỏ hiện tại, chạy theo tương lai? Chúng tôi sẽ ăn chiều, ăn sáng,
ăn ban ngày và ăn phi thời".
Bạch Thế Tôn, vì chúng con không thể làm cho Tỷ-kheo Assaji và
Tỷ-kheo Punabbasuka chấp thuận, nên chúng con trình sự việc này lên Thế Tôn.
6. Rồi Thế Tôn bảo một Tỷ-kheo:
- Này Tỷ-kheo, hãy đi và nhân danh Ta, bảo Tỷ-kheo Assaji và
Tỷ-kheo Punabbasuka: "Bậc Ðạo Sư cho gọi các Tôn-giả".
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
- Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, đến chỗ Tỷ-kheo Assaji và Tỷ-kheo
Punabbasuka, sau khi đến, nói với Tỷ-kheo Assaji và Tỷ-kheo Punabbasuka:
- Bậc Ðạo Sư cho gọi các Tôn-giả.
- Thưa vâng, Hiền-giả.
Tỷ-kheo Assaji và Tỷ-kheo Punabbasuka vâng đáp Tỷ-kheo ấy, đi đến
chỗ Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với
Tỷ-kheo Assaji và Tỷ-kheo Punabbasuka đang ngồi một bên:
- Có thật chăng, này các Tỷ-kheo, một số đông Tỷ-kheo đến các ông và nói như sau:
"Chư
Hiền, Thế Tôn ăn, từ bỏ ăn ban đêm, cả chúng Tỷ-kheo cũng vậy. Do ăn, từ bỏ ăn
ban đêm, các vị ấy cảm thấy ít bệnh, ít não, khinh an, có sức lực và an trú.
Chư Hiền, hãy đến và ăn, từ bỏ ăn ban đêm. Chư Hiền, do ăn, từ bỏ ăn ban đêm,
chư Hiền sẽ cảm thấy ít bệnh, ít não, khinh an, có sức lực và an trú".
Ðược nói vậy, này các Tỷ-kheo, các ông nói với các Tỷ-kheo ấy như
sau: "Chư
Hiền, chúng tôi ăn chiều, ăn sáng, ăn ban ngày và ăn phi thời. Do ăn chiều, ăn
sáng, ăn ban ngày và ăn phi thời, chúng tôi cảm thấy ít bệnh, ít não, khinh an,
có sức lực và an trú. Sao chúng tôi lại bỏ hiện tại, chạy theo tương lai? Chúng
tôi sẽ ăn chiều, ăn sáng, ăn ban ngày và ăn phi thời"?
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
- Này các Tỷ-kheo, các
ông có hiểu pháp Ta dạy như sau:
"Một cá nhân cảm thọ
bất cứ cảm giác nào, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; đối với người ấy, các pháp bất thiện được đoạn diệt, các
thiện pháp được tăng trưởng"?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
7. - Này các Tỷ-kheo, các ông có hiểu pháp Ta dạy như sau:
"Ở đây đối với một
người, khi cảm thọ lạc thọ như vậy,
1)
các bất thiện pháp được tăng trưởng,
2)
các thiện pháp bị đoạn diệt;
ở đây, đối với một người, khi cảm thọ lạc thọ như vậy,
1)
các bất thiện pháp bị đoạn diệt,
2)
các thiện pháp được tăng trưởng.
Ở đây, đối với một người khi cảm thọ khổ thọ như vậy,
1)
các bất thiện pháp được tăng trưởng,
2)
các thiện pháp bị đoạn diệt;
ở đây, đối với một người, khi cảm thọ khổ thọ như vậy,
1)
các
bất thiện pháp bị đoạn diệt,
2)
các
thiện pháp được tăng trưởng.
Ở đây, đối với một người, khi cảm thọ bất khổ bất lạc thọ như vậy,
1)
các bất thiện pháp được tăng trưởng,
2)
các thiện pháp bị đoạn diệt;
ở đây, đối với một người, khi cảm thọ bất khổ bất lạc thọ như vậy,
1)
các bất thiện pháp bị đoạn diệt,
2)
các thiện pháp được tăng trưởng"?
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
8. - Lành thay, này các Tỷ-kheo! Này các Tỷ-kheo, nếu sự việc này Ta không biết, không
thấy, không giác, không chứng, không liễu giải với trí tuệ rằng: "Ở đây, đối với một người, khi cảm thọ lạc thọ như vậy, các
bất thiện pháp được tăng trưởng, các thiện pháp bị đoạn diệt", có thể chăng, này các Tỷ-kheo, không biết như vậy, Ta lại nói:
"Hãy từ bỏ lạc
thọ như vậy"? Và như vậy, này các Tỷ-kheo, là
xứng đáng đối với Ta chăng?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Nhưng này các Tỷ-kheo, vì rằng sự việc này Ta biết, Ta thấy,
Ta giác, Ta chứng, Ta liễu giải với trí tuệ rằng: "Ở đây, đối với một người, khi cảm thọ lạc thọ như vậy, các
bất thiện pháp được tăng trưởng, các thiện pháp bị đoạn diệt", do vậy Ta nói: "Hãy từ bỏ lạc thọ như vậy".
9. Này các Tỷ-kheo, nếu sự việc này Ta không biết, không thấy,
không giác, không chứng, không liễu giải với trí tuệ rằng: "Ở đây, đối với một người, khi cảm thọ lạc thọ như vậy, các bất
thiện pháp bị đoạn diệt, các thiện pháp được tăng trưởng", có thể chăng, này các Tỷ-kheo, không biết như vậy, Ta lại nói:
"Hãy chứng và trú lạc thọ như vậy"? Và như vậy, này các Tỷ-kheo, là
xứng đáng đối với Ta chăng?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Nhưng này các Tỷ-kheo, vì sự việc này Ta biết, Ta thấy, Ta giác, Ta chứng, Ta
liễu giải với trí tuệ rằng: "Ở đây, đối với một người,
khi cảm thọ lạc thọ như vậy, các thiện pháp được tăng trưởng, các bất thiện pháp bị đoạn
diệt", do vậy Ta nói: "Hãy chứng và
trú lạc thọ như vậy".
10. Này các Tỷ-kheo, nếu sự việc này Ta không biết, không thấy,
không giác, không chứng, không liễu giải với trí tuệ rằng: "Ở đây, đối với một người,
khi cảm thọ khổ thọ như vậy, các bất thiện pháp được tăng trưởng, các thiện
pháp bị đoạn diệt", có thể chăng, này các Tỷ-kheo,
không biết như vậy, Ta lại nói: "Hãy từ bỏ khổ thọ như vậy"? Và như
vậy, này các Tỷ-kheo, là xứng đáng đối với Ta chăng?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Nhưng này các Tỷ-kheo, vì rằng sự việc này Ta biết, Ta thấy, Ta giác, Ta chứng,
Ta liễu giải với trí tuệ rằng: "Ở đây, đối với một người,
khi cảm thọ khổ thọ như vậy, các bất thiện pháp được tăng trưởng,
các thiện pháp bị đoạn diệt", do vậy
Ta nói: "Hãy từ bỏ
khổ thọ như vậy".
11. Này các Tỷ-kheo, nếu sự việc này Ta không biết, không thấy,
không giác, không chứng, không liễu giải với trí tuệ rằng: "Ở đây, đối với một người, khi
cảm thọ khổ thọ như vậy, các bất thiện pháp bị đoạn diệt, các thiện pháp được
tăng trưởng", có thể chăng, này các Tỷ-kheo,
không biết như vậy, Ta lại nói: "Hãy chứng và trú khổ thọ như vậy"?
Và như vậy, này các Tỷ-kheo, là xứng đáng đối với Ta chăng?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Nhưng này các Tỷ-kheo, vì sự việc này Ta biết, Ta thấy, Ta giác, Ta chứng, Ta
liễu giải với trí tuệ rằng: "Ở đây, đối với một người,
khi cảm thọ khổ thọ như vậy, các thiện pháp được tăng trưởng, các bất
thiện pháp bị đoạn diệt", do vậy Ta nói: "Hãy chứng và
trú khổ thọ như vậy".
12. Này các Tỷ-kheo, nếu sự việc này Ta không biết, không thấy,
không giác, không chứng, không liễu giải với trí tuệ rằng: "Ở đây, đối với một người, khi
cảm thọ bất khổ bất lạc thọ như vậy, các bất thiện pháp được tăng trưởng, các
thiện pháp bị đoạn diệt", có thể chăng,
này các Tỷ-kheo, không biết như vậy, Ta lại nói: "Hãy từ bỏ bất khổ bất
lạc thọ như vậy"? Và như vậy, này các Tỷ-kheo, là xứng đáng đối với Ta
chăng?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Nhưng này các Tỷ-kheo, vì rằng sự việc
này Ta biết, Ta thấy, Ta giác, Ta chứng, Ta liễu giải với trí tuệ rằng: "Ở đây, đối với một người,
khi cảm thọ bất khổ
bất lạc thọ như vậy, các bất thiện pháp được tăng trưởng, các thiện
pháp bị đoạn diệt", do vậy Ta nói: "Hãy từ bỏ bất khổ bất lạc thọ như vậy".
13. Này các Tỷ-kheo, nếu sự việc này Ta không biết, không thấy,
không giác, không chứng, không liễu giải với trí tuệ rằng: "Ở đây, đối với một người,
khi cảm thọ bất khổ bất lạc thọ như vậy, các bất thiện pháp bị đoạn diệt, các
thiện pháp được tăng trưởng", có thể chăng,
này các Tỷ-kheo, không biết như vậy, Ta lại nói: "Hãy chứng và trú bất khổ
bất lạc thọ như vậy"? Và như vậy, này các Tỷ-kheo, là xứng đáng đối với Ta
chăng?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Nhưng này các Tỷ-kheo, vì sự việc này Ta
biết, Ta thấy, Ta giác, Ta chứng, Ta liễu giải với trí tuệ rằng: "Ở đây, đối với một người,
khi cảm thọ bất khổ
bất lạc thọ như vậy, các thiện pháp được tăng trưởng, các bất thiện
pháp bị đoạn diệt", do vậy Ta nói: "Hãy chứng và trú bất khổ bất lạc thọ như vậy".
14. Này các Tỷ-kheo, Ta không nói rằng đối với tất cả
Tỷ-kheo, có sự việc cần
phải làm, nhờ không phóng dật.
Này các Tỷ-kheo, Ta không nói rằng đối với tất cả
Tỷ-kheo, không có sự việc cần phải làm, nhờ không phóng dật.
Này các Tỷ-kheo, đối với những
Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc
đã đoạn tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng
xuống, đã thành đạt được lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải
thoát; này các Tỷ-kheo, đối với những Tỷ-kheo như vậy, Ta nói rằng không có sự việc cần phải làm, nhờ
không phóng dật.
Vì sao vậy? Vì sự việc ấy đã
được các vị này làm, nhờ không phóng dật. Các vị này không thể trở
thành phóng dật.
15. Và này các Tỷ-kheo, đối với các
Tỷ-kheo còn là các bậc hữu học, tâm chưa thành
tựu, đang sống cần cầu sự vô thượng an ổn khỏi các triền ách; này các Tỷ-kheo,
đối với những Tỷ-kheo như vậy, Ta nói rằng có sự việc cần
phải làm, nhờ không phóng dật.
Vì sao vậy? Dầu cho trong khi các bậc Tôn-giả này thọ dụng
các sàng tọa đúng pháp, thân cận các thiện hữu, chế ngự các căn, các vị ấy (cần phải) tự mình nhờ thượng
trí chứng ngộ chứng đạt, và an trú ngay trong hiện tại mục đích vô thượng của
Phạm hạnh, vì mục đích này, các Thiện gia nam tử chân chánh xuất gia, từ bỏ gia
đình, sống không gia đình.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, đối với những Tỷ-kheo này, vì thấy quả này của không phóng dật nên Ta nói có sự việc cần phải làm, nhờ không phóng dật.
16. Này các Tỷ-kheo có bảy hạng người sống trong đời này. Thế
nào là bảy?
1)
Bậc câu phần giải thoát,
2)
bậc tuệ giải thoát,
3)
bậc thân chứng,
4)
bậc kiến đáo,
5)
bậc tín giải thoát,
6)
bậc tùy pháp hành,
7)
bậc tùy tín hành.
17. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là bậc câu phần giải thoát?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có
người,
1)
sau khi thân đã chứng đắc các tịch tịnh giải thoát,
2)
vượt khỏi các sắc pháp và vô sắc pháp,
3)
và sau khi đã thấy với trí tuệ, các lậu hoặc của vị này được đoạn
trừ hoàn toàn.
Vị này, này các Tỷ-kheo, được gọi là
hạng người câu phần giải thoát.
Này các Tỷ-kheo, đối với Tỷ-kheo này, Ta nói rằng không
có sự việc cần phải làm, nhờ không phóng dật.
Vì sao vậy? Vì sự việc ấy đã được vị này làm, nhờ không phóng dật, vị ấy không
có thể trở thành phóng dật.
18. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là bậc tuệ giải thoát?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người,
1)
sau khi thân không chứng đắc các tịch tịnh giải thoát,
2)
vượt khỏi các sắc pháp và vô sắc pháp,
3)
và sau khi đã thấy với trí tuệ, các lậu hoặc của vị này được đoạn
trừ hoàn toàn.
Vị này như vậy được gọi là bậc tuệ giải thoát.
Này các Tỷ-kheo, đối với Tỷ-kheo này, Ta nói không có
sự việc cần phải làm, nhờ không phóng dật.
Vì sao vậy? Vì sự việc ấy đã được vị này làm, nhờ không phóng dật; vị ấy không
có thể trở thành phóng dật.
19. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là bậc thân
chứng?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
1) sau khi thân chứng đắc các tịch tịnh giải thoát,
2) vượt khỏi các
sắc pháp và vô sắc pháp,
3) và sau khi đã
thấy với trí tuệ, một số lậu hoặc của vị này
được đoạn trừ hoàn toàn.
Vị này như vậy được gọi là bậc thân chứng.
Này các Tỷ-kheo, đối với Tỷ-kheo này, Ta nói có sự việc cần phải làm,
nhờ không phóng dật.
Vì sao vậy? Dầu cho trong khi Tôn-giả này thọ
dụng các sàng tọa đúng pháp, thân cận các thiện hữu, chế ngự các căn, vị này (cần phải) tự mình với thượng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú
ngay trong hiện tại mục đích vô thượng của Phạm hạnh, vì mục đích này các Thiện gia nam tử đã
chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, vì thấy quả này của không phóng dật, nên đối với Tỷ-kheo này, Ta nói có
sự việc cần phải làm, nhờ không phóng dật.
20. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là bậc kiến đáo?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
1)
sau khi tự thân không chứng đắc các tịch tịnh giải thoát,
2)
vượt khỏi các sắc pháp và vô sắc pháp,
3)
và sau khi đã thấy với trí tuệ, một số lậu hoặc của vị này được đoạn trừ hoàn toàn;
4)
và các pháp do Như Lai tuyên
thuyết được vị này thấy một cách hoàn toàn với trí tuệ và thực hành một cách hoàn
toàn.
Này các Tỷ-kheo, vị này được gọi là kiến đáo.
Này các Tỷ-kheo, đối với Tỷ-kheo này, Ta nói có sự việc cần phải làm, nhờ không phóng dật.
Vì sao vậy? Dầu cho trong khi Tôn-giả này thọ dụng các sàng tọa
đúng pháp, thân cận các thiện hữu, chế ngự các căn, vị này (cần phải) tự mình với thượng trí, chứng ngộ,
chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại mục đích vô thượng của Phạm hạnh, vì mục đích này các Thiện gia nam tử đã chơn chánh xuất gia, từ
bỏ gia đình, sống không gia đình.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, vì thấy quả này
của không phóng dật, nên đối với
Tỷ-kheo này, Ta nói có sự việc cần phải làm, nhờ không phóng dật.
21. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là bậc tín
giải thoát?
Ở đây, này các Tỷ-kheo có người,
1) sau khi tự thân chứng đắc các tịch tịnh giải thoát,
2) vượt khỏi các
sắc pháp và vô sắc pháp,
3) và sau khi đã
thấy với trí tuệ, một số lậu hoặc của vị này
được đoạn trừ một cách hoàn toàn;
4) và lòng tin của vị này đối với Như Lai đã được xác định,
phát sanh từ căn để an trú.
Này các Tỷ kheo, vị này được gọi là bậc tín giải thoát.
Này các Tỷ-kheo, đối với Tỷ-kheo này, Ta nói có sự việc cần phải làm, nhờ không phóng dật.
Vì sao vậy? Dầu cho trong khi Tôn-giả này thọ
dụng các sàng tọa đúng pháp, thân cận các thiện hữu, chế ngự các căn, vị này (cần
phải) tự mình với thượng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện
tại mục đích vô thượng của Phạm hạnh, vì mục đích này các Thiện gia nam tử đã chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia
đình, sống không gia đình.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, vì thấy quả này của không phóng dật, nên đối với Tỷ-kheo này, Ta nói có
sự việc cần phải làm, nhờ không phóng dật.
22. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người tùy
pháp hành?
Ở đây, này các Tỷ-kheo có người
1) sau khi tự
thân không chứng đắc các tịch
tịnh giải thoát,
2) vượt khỏi các
sắc pháp và vô sắc pháp,
3) và sau khi đã
thấy với trí tuệ, nhưng các lậu hoặc không được đoạn trừ một
cách hoàn toàn;
4) và các pháp
do Như Lai tuyên thuyết (chỉ) được vị này chấp nhận một cách vừa phải với trí tuệ,
dầu cho vị này có những pháp như là tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ
căn.
Này các Tỷ-kheo, vị này được gọi là người tùy pháp hành.
Này các Tỷ-kheo, đối với Tỷ-kheo này, Ta nói có sự việc cần phải làm, nhờ không phóng dật.
Vì sao vậy? Dầu cho trong khi Tôn-giả này thọ
dụng các sàng tọa đúng pháp, thân cận các thiện hữu, chế ngự các căn, vị này (cần
phải) tự mình với thượng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện
tại mục đích vô thượng của Phạm hạnh, vì mục đích này các Thiện gia nam tử đã chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia
đình, sống không gia đình.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, vì thấy quả này của
không phóng dật, nên đối với Tỷ-kheo này, Ta nói có sự việc cần phải làm, nhờ
không phóng dật.
23. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người tùy
tín hành?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
1) sau khi tự
thân không chứng đắc các tịch
tịnh giải thoát,
2) vượt khỏi các
sắc pháp và vô sắc pháp,
3) và sau khi đã
thấy với trí tuệ, nhưng các lậu hoặc không được đoạn trừ.
4) Nhưng nếu vị
này có đủ lòng tin và lòng thương đối với Như Lai, thời vị này
sẽ có những pháp như là tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn.
Này các Tỷ-kheo, vị này được gọi là người tùy tín hành.
Này các Tỷ-kheo, đối với Tỷ-kheo này, Ta nói có sự việc cần phải làm, nhờ không phóng dật.
Vì sao vậy? Dầu cho trong khi Tôn-giả này thọ
dụng các sàng tọa đúng pháp, thân cận các thiện hữu, chế ngự các căn, nhưng vị này
(cần phải) tự mình với thượng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong
hiện tại mục đích vô thượng của Phạm hạnh, vì mục đích này các Thiện gia nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia
đình, sống không gia đình.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, vì thấy quả này của không phóng dật, nên đối với Tỷ-kheo này, Ta nói có sự việc
cần phải làm, nhờ không phóng dật.
24. Này các Tỷ-kheo, Ta không nói rằng trí tuệ được hoàn thành lập
tức. Nhưng này các Tỷ-kheo, trí tuệ được hoàn thành nhờ học từ từ, hành từ
từ, thực tập từ từ.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là trí tuệ được hoàn thành
nhờ học từ từ, hành từ từ, thực tập từ từ?
Ở đây, này các
Tỷ-kheo,
1)
một vị có lòng tin đi đến gần;
2)
sau khi đến gần, vị ấy tỏ sự kính lễ;
3)
sau khi tỏ sự kính lễ, vị ấy lóng tai;
4)
sau khi lóng tai, vị ấy nghe pháp;
5)
sau khi nghe pháp, vị ấy thọ trì pháp;
6)
sau khi thọ trì, vị ấy suy tư ý nghĩa các pháp
được thọ trì;
7)
sau khi suy tư ý nghĩa, các pháp được chấp thuận;
8)
sau khi các pháp được chấp
thuận, ước muốn sanh khởi;
9)
sau khi ước muốn sanh khởi, vị ấy nỗ lực;
10)
sau khi nỗ lực, vị ấy cân nhắc;
11)
sau khi cân nhắc, vị ấy tinh cần.
12)
Do tinh cần, vị ấy tự thân chứng được sự thật tối thượng, và với trí tuệ thể nhập sự thật ấy, vị ấy thấy.
Nhưng này các
Tỷ-kheo,
1) nếu không có lòng tin ấy,
2) thời này các Tỷ-kheo, không có sự đến
gần ấy,
3) thời này các Tỷ-kheo, không có tỏ sự
kính lễ ấy,
4) thời này các Tỷ-kheo, không có sự lóng
tai ấy,
5) thời này các Tỷ-kheo, không có sự nghe
pháp ấy,
6) thời này Tỷ-kheo, không có sự thọ
trì pháp ấy,
7) thời này các Tỷ-kheo, không có sự suy tư
ý nghĩa ấy,
8) thời này các Tỷ-kheo, không có sự chấp
thuận pháp ấy,
9) thời này các Tỷ-kheo, không có sự ước
muốn ấy,
10) thời này các Tỷ-kheo, không có sự nỗ lực ấy,
11) thời này các Tỷ-kheo, không có sự cân
nhắc ấy,
12) thời này các Tỷ-kheo không có sự tinh
cần ấy.
Này các Tỷ kheo, ở đây, các ông đã đi vào phi đạo.
Này các Tỷ-kheo, ở đây, các ông đã đi vào tà đạo.
Thật là quá xa, này các Tỷ-kheo, các kẻ ngu này đã đi ra ngoài Pháp và Luật này.
25. Này các
Tỷ-kheo, có sự thuyết trình gồm có bốn phần (Catuppadaṃ = Tứ cú) chính nhờ thuyết trình này người có trí, không bao lâu, nhờ tuệ biết được ý nghĩa. Ta sẽ đọc sự thuyết trình ấy lên cho các Ông, này các Tỷ-kheo,
các Ông nhờ Ta mà sẽ hiểu thuyết trình ấy.
- Bạch Thế Tôn, chúng con là ai có thể biết được Pháp?
26. - Này các Tỷ-kheo, cho đến một bậc Ðạo sư sống quá trọng vọng
tài vật, là vị thừa tự tài vật, và sống liên hệ với tài vật, thời sự mua may bán đắt này không xảy ra: "Chúng tôi sẽ làm việc này như vậy, và như vậy chúng tôi
sẽ không làm việc này như vậy", huống nữa là
Như Lai, này các Tỷ-kheo, là vị sống hoàn toàn không liên hệ với các tài vật.
27.
1)
Này các Tỷ-kheo, đối với một đệ tử có lòng tin giáo pháp bậc Ðạo Sư và sống thể nhập giáo pháp ấy, thời tùy pháp (Anudhamma) được khởi lên: "Bậc Ðạo Sư là Thế Tôn, đệ tử là tôi. Thế Tôn
biết, tôi không biết".
2)
Này các Tỷ-kheo, đối với một đệ tử có lòng tin giáo pháp bậc Ðạo Sư và sống thể nhập giáo pháp ấy,
thời giáo pháp bậc Ðạo Sư được hưng thịnh, được nhiều sinh lực.
3)
Này các Tỷ-kheo, đối với một đệ tử có lòng tin giáo pháp bậc Ðạo Sư và sống thể nhập giáo pháp ấy,
thời tùy pháp này được khởi lên: "Dầu chỉ còn da, gân và xương, dầu thịt và máu trên thân bị
khô héo, mong rằng sẽ có tinh tấn lực để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, nhờ
trượng phu nhẫn nại, nhờ trượng phu tinh tấn, nhờ trượng phu cần dõng".
4)
Này các Tỷ-kheo, đối với một đệ tử có lòng tin giáo pháp bậc Ðạo Sư và sống thể nhập giáo pháp ấy, vị
ấy sẽ chứng được một trong hai quả như sau: Chánh trí ngay trong hiện tại, và nếu có dư y, chứng
quả Bất hoàn.
Thế Tôn thuyết
như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
No comments:
Post a Comment