4. Ba điều quan trọng cần lưu ý khi tu tập Bốn Niệm Xứ
4.2 Cần biết tu tập
về Hướng Tâm và tu tập Không Hướng Tâm
47. 1. 10) Kinh Trú Xứ Tỷ-kheo-ni:
Bhikkhunūpassayasuttaṃ (1188 - Kinh Tương Ưng)
1. Tại Sāvatthī.
2. Rồi Tôn-giả Ānanda, vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát đi đến một trú xứ
của Tỷ-kheo-ni; sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn.
3. Rồi một số đông Tỷ-kheo-ni đến Tôn-giả Ānanda; sau khi đến, đảnh lễ
Tôn-giả Ānanda rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, các Tỷ-kheo-ni ấy thưa với
Tôn-giả Ānanda:
- Ở đây,
bạch Thượng Tọa Ānanda, một số đông Tỷ-kheo-ni sống khéo an trú tâm trên Bốn niệm xứ, đạt được sự rõ biết
(sampajānanti) quảng đại, trước sau thù thắng.
- Như vậy là phải, này các đại tỷ! Như vậy là phải, này các đại tỷ! Này
các đại tỷ, Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào sống với tâm khéo an trú trong Bốn niệm
xứ, vị ấy được chờ đợi sẽ đạt được sự rõ biết quảng đại, trước sau thù thắng.
4. Rồi Tôn-giả Ānanda với bài pháp thoại, sau khi tuyên thuyết cho các Tỷ-kheo-ni
ấy, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra
đi.
5. Rồi Tôn-giả Ānanda sau khi đi khất thực ở Sāvatthī, sau buổi ăn, trên
con đường khất thực trở về, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi
ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, Tôn-giả Ānanda bạch Thế Tôn:
- Ở đây, bạch Thế Tôn, con, vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát đi đến một
trú xứ của Tỷ-kheo-ni, sau khi đến, con ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Rồi, bạch Thế
Tôn, một số đông Tỷ-kheo-ni đi đến con, sau khi đến, đảnh lễ con rồi ngồi xuống
một bên. Ngồi một bên, bạch Thế Tôn, các Tỷ-kheo-ni ấy thưa với con: "Ở đây, bạch
Thượng Tọa Ānanda, một số đông Tỷ-kheo-ni sống khéo an trú tâm trên Bốn niệm xứ,
đạt được sự rõ biết quảng đại, trước sau thù thắng". Khi được
nói vậy, bạch Thế Tôn, con nói với các Tỷ-kheo-ni ấy: "Như vậy là phải, này các đại tỷ! Như
vậy là phải, này các đại tỷ! này các đại tỷ, Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào sống với
tâm khéo an trú trong Bốn niệm xứ, vị ấy được chờ đợi sẽ đạt được sự rõ biết quảng
đại, trước sau thù thắng".
6. - Như vậy là phải, này Ānanda! Như vậy là phải, này Ānanda! Này Ānanda, Tỷ-kheo
hay Tỷ-kheo-ni nào sống với tâm khéo an trú trên Bốn niệm xứ, vị ấy được chờ đợi
sẽ đạt được sự rõ biết quảng đại, trước sau thù thắng. Thế nào là bốn?
7. Ở đây, này Ānanda, Tỷ-kheo
sống, quán thân
trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, Chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Vị ấy trú, quán thân trên thân, hoặc thân sở
duyên (kāyārammaṇo) khởi lên, hoặc thân
nhiệt não (kāyasmiṃ pariḷāho), hoặc tâm thụ động, hoặc tâm
phân tán, hướng ngoại (bahiddhā vā cittaṃ
vikkhipati); do vậy, này Ānanda, Tỷ-kheo cần phải hướng tâm đến một tướng tịnh
tín (pasādanīye nimitte). Do vị ấy hướng tâm đến một tướng tịnh tín,
hân hoan (pāmojjaṃ: thắng hỷ) sanh. Người có tâm hân hoan, hỷ sanh. Người
có tâm hỷ, thân được khinh an. Người có thân khinh
an, lạc thọ sanh. Người có lạc thọ, tâm được định tĩnh. Vị ấy tư sát như sau: "Mục đích mà ta hướng tâm đến, mục đích ấy đã đạt được.
Nay ta rút lui (paṭisaṃharāmī) (khỏi đối tượng tịnh tín)". Vị ấy
rút lui, không tầm, không tứ. Vị ấy rõ biết: "Không tầm, không tứ, nội tâm Chánh niệm,
ta được an lạc".
8. Lại nữa, này Ānanda, Tỷ-kheo sống, quán thọ
trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác,
Chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Vị ấy trú, quán thọ trên các thọ, hoặc thọ sở duyên khởi lên, hoặc thân nhiệt não, hoặc tâm thụ động, hoặc tâm phân tán, hướng ngoại; do vậy, này Ānanda, Tỷ-kheo cần phải
hướng tâm đến một tướng tịnh tín. Do vị ấy hướng tâm đến một tướng tịnh tín, hân hoan sanh. Người có tâm
hân hoan, hỷ sanh. Người có tâm hỷ, thân được khinh an. Người có thân khinh an, lạc thọ sanh. Người có lạc thọ, tâm được định tĩnh. Vị ấy tư
sát như sau: "Mục đích mà ta hướng tâm đến, mục đích ấy đã đạt được. Nay
ta rút lui (khỏi đối tượng tịnh tín)". Vị ấy rút lui, không tầm, không tứ.
Vị ấy rõ biết: "Không tầm, không tứ, nội tâm Chánh niệm, ta được an lạc".
9. Lại nữa, này Ānanda, Tỷ-kheo sống, quán
tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, Chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở
đời. Vị ấy trú, quán tâm trên tâm, hoặc tâm sở duyên
khởi lên, hoặc thân nhiệt não, hoặc tâm thụ động, hoặc tâm phân tán, hướng ngoại;
do vậy, này Ānanda, Tỷ-kheo cần phải hướng tâm đến một tướng tịnh tín. Do vị ấy
hướng tâm đến một tướng tịnh tín, hân hoan sanh. Người có tâm hân hoan, hỷ
sanh. Người có tâm hỷ, thân được khinh an. Người có thân khinh an, lạc thọ
sanh. Người có lạc thọ, tâm được định tĩnh. Vị ấy tư sát như sau: "Mục
đích mà ta hướng tâm đến, mục đích ấy đã đạt được. Nay ta rút lui (khỏi đối tượng
tịnh tín)". Vị ấy rút lui, không tầm, không tứ. Vị ấy rõ biết: "Không
tầm, không tứ, nội tâm Chánh niệm, ta được an lạc".
10. Vị ấy sống, quán pháp trên các pháp,
nhiệt tâm, tỉnh giác, Chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Vị ấy trú, quán pháp trên các pháp, hoặc pháp sở duyên khởi lên, hoặc
thân nhiệt não, hoặc tâm thụ động, hoặc tâm phân tán, hướng ngoại; do vậy, này
Ānanda, Tỷ-kheo cần phải hướng tâm đến một
tướng tịnh tín. Do vị ấy hướng tâm đến một tướng tịnh tín,
hân hoan sanh. Người có tâm hân hoan, hỷ sanh. Người có tâm hỷ, thân được khinh
an. Người có thân khinh an, lạc thọ sanh. Người có lạc thọ, tâm được định tĩnh.
Vị ấy tư sát như sau: "Mục đích mà ta hướng tâm đến, mục đích ấy đã đạt được.
Nay ta rút lui (khỏi đối tượng tướng tịnh tín)". Vị ấy rút lui,
không tầm, không tứ. Vị ấy rõ biết: "Không
tầm, không tứ, nội tâm Chánh niệm, ta được an lạc".
11. Như vậy, này Ānanda, là sự tu tập về hướng tâm.
12. Và này Ānanda, thế nào là sự tu tập không có hướng tâm?
13. Này Ānanda, Tỷ-kheo tâm không hướng ngoại, rõ biết:
"Tâm ta
không hướng ngoại". Rồi vị ấy rõ biết: "Tâm ta không chấp thủ đối với cái gì ở
trước, hay cái gì ở sau (pacchāpure), nhưng được giải thoát, không có hướng
tâm". Rồi vị ấy rõ biết: "Ta trú, quán thân trên thân,
nhiệt tâm, tỉnh giác, Chánh niệm, ta được an lạc".
14. Này Ānanda, Tỷ-kheo tâm không hướng ngoại, rõ biết:
"Tâm ta không hướng ngoại". Rồi vị ấy rõ biết: "Tâm ta không chấp
thủ đối với cái gì ở trước, hay cái gì ở sau, nhưng được giải thoát, không có
hướng tâm". Rồi vị ấy rõ biết: "Ta trú, quán thọ trên các thọ,
nhiệt tâm, tỉnh giác, Chánh niệm, ta được an lạc".
15. Này Ānanda, Tỷ-kheo tâm không hướng ngoại, rõ biết:
"Tâm ta không hướng ngoại". Rồi vị ấy rõ biết: "Tâm ta không chấp
thủ đối với cái gì ở trước, hay cái gì ở sau, nhưng được giải thoát, không có
hướng tâm". Rồi vị ấy rõ biết: "Ta trú, quán
tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, Chánh niệm, ta được an lạc".
16. Này Ānanda, Tỷ-kheo tâm không hướng ngoại, rõ biết:
"Tâm ta không hướng ngoại". Rồi vị ấy rõ biết: "Tâm ta không chấp
thủ đối với cái gì ở trước, hay cái gì ở sau, nhưng được giải thoát, không có
hướng tâm". Rồi vị ấy rõ biết: "Ta trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, Chánh niệm, ta được an lạc".
17. Như vậy, này Ānanda, là tu tập không có hướng tâm.
18. Như vậy,
này Ānanda, Ta thuyết tu tập có hướng
tâm; Ta thuyết tu tập không
có hướng tâm. Những gì, này Ānanda, một bậc Ðạo Sư cần phải làm vì hạnh phúc, vì lòng
thương tưởng đối với các đệ tử, vì lòng từ mẫn khởi lên, những việc ấy, Ta đã
làm cho các ông. Này Ānanda, đây là những gốc cây. Ðây là những nhà trống. Hãy
tu Thiền, này Ānanda. Chớ có phóng dật. Chớ có hối hận về sau. Ðây là lời giáo
giới của Ta cho các ông.
19. Thế Tôn thuyết giảng
như vậy, Tôn-giả Ānanda hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
No comments:
Post a Comment