NAMO TASSA BHAGAVATO ARAHATO SAMMASAMBUDDHASA

Chánh Pháp (Phật Pháp)

Chánh Pháp mà đức Thế Tôn đã khéo thuyết giảng"thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu".

Chánh Pháp ấy là Bốn Thánh Đế và sự tu tập chân chánh là sự thực hành con đường Thánh Đạo Tám Ngành (còn được gọi là: Bát Chánh Đạo, hay Bát Thánh Đạo): Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định; y chỉ viễn ly, y chỉ ly tham, y chỉ đoạn diệt, y chỉ từ bỏ; là con đường duy nhất đưa đến đoạn tận Tham Sân Si, chấm dứt khổ đau, chấm dứt sanh tử luân hồi, chứng ngộ Niết Bàn.

Chúng ta hãy thường xuyên ôn tập và ghi nhớ lời dạy sau đây của đức Phật để tự nhắc mình luôn tinh tấn tu tập Thánh Đạo Tám Ngành:

  • "Vô thỉ là luân hồi này, này các Tỷ-kheo, khởi điểm không thể nêu rõ đối với sự lưu chuyển luân hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc".
  • "Này các Tỷ-kheo, do không giác ngộ, do không thông đạt Bốn Thánh Đế mà Ta và các Ông lâu ngày phải dong ruổi, lưu chuyển như thế này. Thế nào là bốn? Thánh đế về Khổ, Thánh đế về Khổ tập, Thánh đế về Khổ diệt, Thánh đế về Con Ðường đưa đến Khổ diệt".
  • "Này các Tỷ-kheo, một cố gắng cần phải làm để rõ biết: "Ðây là Khổ".
  • Một cố gắng cần phải làm để rõ biết: "Ðây là Khổ tập".
  • Một cố gắng cần phải làm để rõ biết: "Ðây là Khổ diệt".
  • Một cố gắng cần phải làm để rõ biết: "Ðây là Con đường đưa đến Khổ diệt"".
  • "Này các Tỷ-kheo, Thánh đế về Khổ, cần phải liễu tri.
  • Thánh đế về Khổ tập cần phải đoạn tận.
  • Thánh đế về Khổ diệt cần phải chứng ngộ.
  • Thánh đế về Con đường đưa đến Khổ diệt cần phải tu tập".

(trích Kinh Tương Ưng Bộ)

--------------------------------------------------------------------------------------------------------

Popular Posts

Tuesday, September 8, 2015

AN 7.68 – Kinh Pháp Trí (biết pháp, biết nghĩa, biết tự ngã, biết ước lượng, biết thời, biết hội chúng, biết người thắng kẻ liệt)

AN 7.68 – Kinh Pháp Trí: Dhammaññūsuttaṃ

1. - Thành tựu bảy pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là ruộng phước vô thượng ở đời. Thế nào là bảy?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là vị
1)     biết pháp,
2)     biết nghĩa,
3)     biết tự ngã,
4)     biết ước lượng,
5)     biết thời,
6)     biết hội chúng,
7)     biết người thắng kẻ liệt.
3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo biết pháp?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo biết pháp: Khế Kinh, Ứng tụng, Ký thuyết, Phúng tụng, Vô vấn tự thuyết, Như thị thuyết, Bổn sanh, Pháp chưa từng có, Phương quảng.
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo không biết pháp: Khế Kinh, Ứng tụng, Ký thuyết, Phúng tụng, Vô vấn tự thuyết, Như thị thuyết, Bổn sanh, Pháp chưa từng có, Phương quảng; vị ấy ở đây không được gọi là vị biết pháp.
Và này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo biết pháp: Khế Kinh, Ứng tụng, Ký thuyết, Phúng tụng, Vô vấn tự thuyết, Như thị thuyết, Bổn sanh, Pháp chưa từng có, Phương quảng; do vậy, vị ấy được gọi là vị biết pháp.
Như vậy là biết pháp.
4. Thế nào là biết nghĩa?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo biết ý nghĩa của lời thuyết này, của lời thuyết kia: "Ðây là ý nghĩa của lời nói này, đây là ý nghĩa của lời nói này".
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo không biết ý nghĩa của lời thuyết này, của lời thuyết kia: "Ðây là ý nghĩa của lời nói này, đây là ý nghĩa của lời nói này"; thời ở đây, vị ấy không được gọi là vị biết nghĩa.
Và này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo biết ý nghĩa của lời thuyết này, của lời thuyết kia: "Ðây là ý nghĩa của lời nói này, đây là ý nghĩa của lời nói này"; do vậy, vị ấy được gọi là vị biết nghĩa.
Ðây là biết pháp, biết nghĩa.
5. Thế nào là tự biết?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tự biết; "Cho đến như vậy, tôi có lòng tin, giữ giới, nghe nhiều, bố thí, trí tuệ, biện tài".
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo không biết tự ngã như vầy: "Cho đến như vậy, tôi có lòng tin, giữ giới, nghe nhiều, bố thí, trí tuệ, biện tài"; thời ở đây, vị ấy không được gọi là vị biết tự ngã.
Nếu Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo, biết tự ngã: "Cho đến như vậy, tôi có lòng tin, giữ giới, nghe nhiều, bố thí, trí tuệ, biện tài"; do vậy, vị ấy được gọi là vị biết tự ngã.
Ðây là biết pháp, biết nghĩa, tự biết.
6. Và thế nào là biết ước lượng?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo biết ước lượng (vừa đủ) trong khi nhận các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh.
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo không biết ước lượng vừa đủ khi nhận các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh; thời vị ấy ở đây không được gọi là vị biết ước lượng vừa đủ.
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo biết ước lượng vừa đủ khi nhận các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh; do vậy vị ấy được gọi là vị biết ước lượng vừa đủ.
Ðây là biết pháp, biết nghĩa, tự biết, biết ước lượng.
7. Và thế nào là biết thời?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo biết thời: "Ðây là thời để tuyên thuyết, đây là thời chất vấn, đây là thời tu tập, đây là thời Thiền tịnh".
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo không biết thời: "Ðây là thời tuyên thuyết, đây là thời chất vấn, đây là thời tu tập, đây là thời Thiền tịnh"; thời ở đây, vị ấy được gọi là không biết thời.
Và này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo biết thời: Ðây là thời tuyên thuyết, đây là thời chất vấn, đây là thời tu tập, đây là thời Thiền tịnh"; do vậy, vị ấy được gọi là vị biết thời.
Ðây là biết pháp, biết nghĩa, tự biết, biết vừa đủ, biết thời.
8. Và thế nào là biết hội chúng?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo biết hội chúng: "Ðây là hội chúng Sát-đế-lỵ, đây là hội chúng Bà-la-môn, đây là hội chúng gia chủ, đây là hội chúng Sa-môn. Ở đây, nên đi đến như vậy, nên đứng như vậy, nên ngồi như vậy, nên nói như vậy, nên im lặng như vậy".
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo không biết hội chúng: "Ðây là hội chúng Sát-đế-lỵ, đây là hội chúng Bà-la-môn, đây là hội chúng gia chủ, đây là hội chúng Sa-môn. Ở đây, nên đi đến như vậy, nên đứng như vậy, nên ngồi như vậy, nên nói như vậy, nên im lặng như vậy"; thời ở đây, vị ấy không được gọi là "Vị biết hội chúng".
Và này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo biết hội chúng: "Ðây là hội chúng Sát-đế-lỵ, đây là hội chúng Bà-la-môn, đây là hội chúng gia chủ, đây là hội chúng Sa-môn. Ở đây, nên đi đến như vậy, nên đứng như vậy, nên ngồi như vậy, nên nói như vậy, nên im lặng như vậy"; do vậy, được gọi là "Vị biết hội chúng".
Ðây là biết pháp, biết nghĩa, tự biết, biết vừa đủ, biết thời, biết hội chúng.
9. Và thế nào là biết người thắng liệt?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, với vị Tỷ-kheo, loài Người được biết theo hai hạng: một hạng ưa thấy các bậc Thánh, một hạng không ưa thấy các bậc Thánh. Người này không ưa thấy các bậc Thánh, do có việc ấy, đáng bị quở trách. Còn người này ưa thấy các bậc Thánh, do việc ấy, đáng được tán thán.
Có hai hạng người nghe diệu pháp: một hạng người ưa nghe diệu pháp, một hạng người không ưa nghe diệu pháp. Hạng người này không ưa nghe diệu pháp, do sự việc ấy, đáng bị quở trách. Hạng người này ưa nghe diệu pháp, do sự việc ấy, đáng được tán thán.
Có hai hạng người nghe diệu pháp: một hạng người lắng tai nghe diệu pháp, một hạng người không lắng tai nghe diệu pháp. Hạng người này không lắng tai nghe diệu pháp, do sự việc ấy, đáng bị quở trách. Hạng người này lắng tai nghe diệu pháp, do sự việc ấy, đáng được tán thán.
Có hai hạng người lắng tai nghe pháp: một hạng người nghe xong, thọ trì pháp; một hạng người nghe xong, không thọ trì pháp. Người này nghe xong không thọ trì pháp, do sự việc ấy, đáng bị quở trách. Người này nghe xong thọ trì pháp, do sự việc ấy, đáng được tán thán.
Có hai hạng người nghe xong thọ trì pháp: một hạng người quán sát ý nghĩa các pháp được thọ trì, một hạng người không quán sát ý nghĩa các pháp được thọ trì. Hạng người này không quán sát ý nghĩa các pháp được thọ trì, do sự việc ấy, đáng được quở trách. Hạng người này quán sát ý nghĩa các pháp được thọ trì, do sự việc ấy, đáng được tán thán.
Có hai hạng người quán sát ý nghĩa các pháp được thọ trì: một hạng người sau khi hiểu nghĩa, sau khi hiểu pháp, đã thực hành pháp; tùy pháp; một hạng người sau khi hiểu nghĩa, sau khi hiểu pháp, không thực hành pháp, tùy pháp. Hạng người này sau khi hiểu nghĩa, sau khi hiểu pháp, không thực hành pháp, tùy pháp, do sự việc ấy, đáng bị quở trách. Hạng người này sau khi hiểu nghĩa, sau khi hiểu pháp, thực hành pháp, tùy pháp, do sự việc ấy, đáng được tán thán.
Có hai hạng người sau khi hiểu nghĩa, sau khi hiểu pháp đã thực hành pháp; tùy pháp; một hạng người thực hành với mục đích tự lợi, không có lợi tha; một hạng người thực hành với mục đích tự lợi và lợi tha. Hạng người này thực hành với mục đích tự lợi, không có lợi tha, do sự việc ấy, đáng bị quở trách. Hạng người này thực hành với mục đích tự lợi và lợi tha, do sự việc ấy, đáng được tán thán.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, đối với Tỷ-kheo, loài Người được biết theo hai hạng. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo biết hạng người thắng liệt.

10. Do thành tựu bảy pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là ruộng phước vô thượng ở đời.

AN 4.146 – Kinh Thời Gian (nghe Pháp đúng thời, đàm luận về Pháp đúng thời, Chỉ đúng thời, Quán đúng thời)

AN 4.146 – Kinh Thời Gian (1): Paṭhamakālasuttaṃ

1. - Có bốn loại thời gian này. Thế nào là bốn?
1)     Nghe pháp đúng thời,
2)     đàm luận về pháp đúng thời,
3)     chỉ đúng thời,
4)     quán đúng thời.
2. Này các Tỷ-kheo, có bốn loại thời gian này.

-------------------------

AN 1.147 – Kinh Thời Gian (2): Dutiyakālasuttaṃ

1. - Có bốn thời gian này, này các Tỷ-kheo, nếu khéo tu tập, nếu khéo vận chuyển, tuần tự đưa đến sự đoạn diệt các lậu hoặc. Thế nào là bốn?
1)     Nghe pháp đúng thời,
2)     đàm luận về pháp đúng thời,
3)     chỉ đúng thời,
4)     quán đúng thời.
Bốn thời gian này, này các Tỷ-kheo, nếu khéo tu tập, khéo vận chuyển, tuần tự đưa đến sự đoạn diệt các lậu hoặc.
2. Ví như, này các Tỷ-kheo,
1)     trên đỉnh núi, trời mưa nặng hột, và nước chảy theo triền thấp, tràn đầy hang núi, khe núi, thung lũng.
2)     Khi các hang núi, khe núi, thung lũng được tràn đầy, thời ao nhỏ được tràn đầy.
3)     Ao nhỏ được tràn đầy, thời ao lớn được tràn đầy. Ao lớn được tràn đầy, thời sông nhỏ được tràn đầy.
4)     Sông nhỏ được tràn đầy, thời sông lớn được tràn đầy.
5)     Sông lớn được tràn đầy, thời biển lớn đại dương được tràn đầy.

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, bốn thời gian này, nếu khéo tu tập, nếu khéo vận chuyển, tuần tự đưa đến sự đoạn diệt các lậu hoặc.

AN 7.24 – Kinh Công Việc (bảy pháp không làm suy giảm)

AN 7.24 – Kinh Công Việc (hay Nhóm Bảy Thứ Nhì):  Dutiyasattakasuttaṃ

1. - Này các Tỷ-kheo, có bảy pháp không làm suy giảm này. Hãy lắng nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
2. Thế Tôn nói như sau:
- Và này các Tỷ-kheo, thế nào là bảy pháp không làm suy giảm?
1)     Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo không ưa thích làm thế sự, không hoan hỷ làm thế sự, không đam mê làm thế sự, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.
2)     Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo không ưa thích phiếm luận, không hoan hỷ phiếm luận, không đam mê phiếm luận, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.
3)     Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo không ưa thích ngủ nghỉ, không hoan hỷ ngủ nghỉ, không đam mê ngủ nghỉ, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.
4)     Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo không ưa thích quần tụ, không hoan hỷ quần tụ, không đam mê quần tụ, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.
5)     Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo không có ác dục vọng, không bị chi phối bởi ác dục vọng, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.
6)     Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo không bè bạn ác dục vọng, không thân tín ác dục vọng, không cộng hành với ác dục vọng, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.
7)     Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo không dừng ở nửa chừng giữa sự đạt đến những quả vị thấp kém và những quả vị thù thắng, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.

3. Này các Tỷ-kheo, khi nào bảy pháp không làm suy giảm này được duy trì giữa các Tỷ-kheo, khi nào các Tỷ-kheo được dạy bảy pháp không làm suy giảm này, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.

AN 6.14 – Kinh Hiền Thiện (ưa công việc, nói chuyện, ngủ, hội chúng, liên lạc giao thiệp, hý luận)

AN 6.14 – Kinh Hiền Thiện: Bhaddakasuttaṃ

1. Tại đây, Tôn-giả Sāriputta gọi các Tỷ-kheo: "Này các Hiền-giả Tỷ-kheo". - "Thưa Hiền-giả".
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn-giả Sāriputta.
2. Tôn-giả Sāriputta nói như sau:
- Này các Hiền-giả, vị Tỷ-kheo nếu sống nếp sống như vậy, như vậy, do sống nếp sống như vậy, như vậy, khi lâm chung không được hiền thiện, khi mệnh chung không được hiền thiện!
Và như thế nào, này các Hiền-giả, Tỷ-kheo sống nếp sống như vậy, như vậy, khi lâm chung không được hiền thiện, khi mệnh chung không được hiền thiện?
3. Ở đây, này các Hiền-giả, Tỷ-kheo
1)     ưa công việc, thích thú công việc, chuyên tâm ưa thích công việc;
2)     ưa nói chuyện, thích thú nói chuyện, chuyên tâm ưa thích nói chuyện;
3)     ưa ngủ, thích thú ngủ, chuyên tâm ưa thích ngủ;
4)     ưa hội chúng, thích thú hội chúng, chuyên tâm ưa thích hội chúng;
5)     ưa liên lạc giao thiệp, thích thú liên lạc giao thiệp, chuyên tâm ưa thích liên lạc giao thiệp;
6)     ưa hý luận, thích thú hý luận, chuyên tâm ưa thích hý luận.
Như vậy, này các Hiền-giả, Tỷ-kheo sống nếp sống như vậy, như vậy, khi lâm chung không được hiền thiện, khi mệnh chung không được hiền thiện.
Này các Hiền-giả, đây được gọi là Tỷ-kheo ái lạc có thân, không từ bỏ có thân để chân chánh chấm dứt khổ đau.
4. Này các Hiền-giả, Tỷ-kheo nếu sống nếp sống như vậy, như vậy, do sống nếp sống như vậy, như vậy, khi lâm chung được hiền thiện, khi mệnh chung được hiền thiện. Và như thế nào, này các Hiền-giả, Tỷ-kheo sống nếp sống như vậy, như vậy, khi lâm chung được hiền thiện, khi mạng chung được hiền thiện?
5. Ở đây, này các Hiền-giả, Tỷ-kheo
1)     không ưa công việc, không thích thú công việc, không chuyên tâm ưa thích công việc;
2)     không ưa nói chuyện, không thích thú nói chuyện, không chuyên tâm ưa thích nói chuyện;
3)     không ưa ngủ, không thích thú ngủ, không chuyên tâm ưa thích ngủ;
4)     không ưa hội chúng, không thích thú hội chúng, không chuyên tâm ưa thích hội chúng;
5)     không ưa liên lạc giao thiệp, không thích thú liên lạc giao thiệp, không chuyên tâm ưa thích liên lạc giao thiệp;
6)     không ưa hý luận, không thích thú hý luận, không chuyên tâm ưa thích hý luận.
Như vậy, này các Hiền-giả, Tỷ-kheo sống nếp sống như vậy, như vậy, khi lâm chung được hiền thiện, khi mệnh chung được hiền thiện.
Này các Hiền-giả, đây được gọi là Tỷ-kheo ái lạc Niết-bàn, từ bỏ có thân để chân chánh chấm dứt khổ đau.
Ai chuyên ưa hý luận,
Như thích thú hý luận,
Ði ngược lại Niết-bàn,
Nơi an ổn vô thượng.

Ai từ bỏ hý luận,
Ưa thích không hý luận.
Thuận hướng đến Niết-bàn,
Nơi an ổn vô thượng.

Monday, September 7, 2015

SN 22.123 – Kinh Vị Có Nghe (Như lý tác ý 5 thủ uẩn Vô thường, Khổ, ..., Vô ngã)

SN 22.123 – Kinh Vị Có Nghe: Sutavantasuttaṃ


1. Một thời, Tôn-giả Sāriputta (Xá-lợi-phất) và Tôn-giả Mahākoṭṭhika trú ở Bārāṇasī (Ba-la-nại), tại Isipatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển.
2. Rồi Tôn-giả Mahākoṭṭhika, vào buổi chiều, từ Thiền tịnh đứng dậy, đi đến Tôn-giả Sāriputta; sau khi đến, nói lên những lời hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên.
3. Ngồi xuống một bên, Tôn-giả Mahākoṭṭhika thưa với Tôn-giả Sāriputta như sau:
- Thưa Hiền-giả Sāriputta, những pháp gì Tỷ-kheo có nghe cần phải như lý tác ý?
4. - Này Hiền-giả Koṭṭhika, Tỷ-kheo có nghe cần phải như lý tác ý năm thủ uẩn là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô ngã.
5. Thế nào là năm? Tức là
1)     sắc thủ uẩn,
2)     thọ thủ uẩn,
3)     tưởng thủ uẩn,
4)     hành thủ uẩn,
5)     thức thủ uẩn.
Này Hiền-giả Koṭṭhika, vị Tỷ-kheo có nghe cần phải như lý tác ý năm thủ uẩn là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô ngã.
6. Này Hiền-giả, sự kiện này xảy ra: Tỷ-kheo có nghe do như tác ý năm thủ uẩn này là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô ngã, có thể chứng được quả Dự lưu.
7. - Với Tỷ-kheo đã chứng quả Dự lưu, này Hiền-giả Sāriputta, những pháp gì cần phải như lý tác ý?
8. - Với Tỷ-kheo đã chứng quả Dự lưu, này Hiền-giả Koṭṭhika, cần phải như lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô ngã.
9. Sự kiện này có thể xảy ra, này Hiền-giả, Tỷ-kheo Dự lưu, do như lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô ngã, có thể chứng được quả Nhứt lai.
10. - Nhưng Tỷ-kheo Nhứt lai, này Hiền-giả Sāriputta, phải như lý tác ý các pháp gì?
11. - Tỷ-kheo Nhứt lai, này Hiền-giả Koṭṭhika, phải như lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô ngã.
12. Sự kiện này có thể xảy ra, này Hiền-giả, Tỷ-kheo Nhứt lai, do như lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô ngã, có thể chứng được quả Bất lai.
13. - Nhưng Tỷ-kheo Bất lai, này Hiền-giả Sāriputta, cần phải như lý tác ý những pháp gì?
14. - Tỷ-kheo Bất lai, này Hiền-giả Koṭṭhika, cần phải như lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô ngã.
15. Sự kiện này có thể xảy ra, này Hiền-giả, Tỷ-kheo Bất lai, do như lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô ngã, có thể chứng được quả A-la-hán.
16. - Nhưng vị A-la-hán, này Hiền-giả Sāriputta, cần phải như lý tác ý các pháp gì?
17. - Vị A-la-hán, này Hiền-giả Koṭṭhika, cần phải như lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô ngã.

18. Với vị A-la-hán, này Hiền-giả, không có gì phải làm nữa, hay không có phải thêm gì nữa trong công việc làm. Nhưng sự tu tập, làm cho sung mãn những pháp này sẽ đưa đến hiện tại lạc trú và chánh niệm tỉnh giác.

SN 22.122 – Kinh Vị Giữ Giới (Như lý tác ý 5 thủ uẩn Vô thường, Khổ, bệnh hoạn ..., Vô ngã)

SN 22.122 – Kinh Vị Giữ Giới: Sīlavantasuttaṃ

1. Một thời, Tôn-giả Sāriputta (Xá-lợi-phất) và Tôn-giả Mahākoṭṭhika trú ở Bārāṇasī (Ba-la-nại), tại Isipatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển.
2. Rồi Tôn-giả Mahākoṭṭhika, vào buổi chiều, từ Thiền tịnh đứng dậy, đi đến Tôn-giả Sāriputta; sau khi đến, nói lên những lời hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên.
3. Ngồi xuống một bên, Tôn-giả Mahākoṭṭhika thưa với Tôn-giả Sāriputta như sau:
- Thưa Hiền-giả Sāriputta, những pháp gì Tỷ-kheo giữ giới cần phải như lý tác ý?
4. - Này Hiền-giả Koṭṭhika, Tỷ-kheo giữ giới cần phải như lý tác ý năm thủ uẩn
1)       vô thường,
2)       khổ,
3)       bệnh hoạn,
4)       ung nhọt,
5)       mũi tên,
6)       bất hạnh,
7)       ốm đau,
8)       người lạ,
9)       hủy hoại,
10)   rỗng không,
11)   vô ngã.
5. Thế nào là năm? Tức là
1)       sắc thủ uẩn,
2)       thọ thủ uẩn,
3)       tưởng thủ uẩn,
4)       hành thủ uẩn,
5)       thức thủ uẩn.
Này Hiền-giả Koṭṭhika, vị Tỷ-kheo giữ giới cần phải như lý tác ý năm thủ uẩn là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô ngã.
6. Này Hiền-giả, sự kiện này xảy ra: Tỷ-kheo giữ giới do như tác ý năm thủ uẩn này là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô ngã, có thể chứng được quả Dự lưu.
7. - Với Tỷ-kheo đã chứng quả Dự lưu, này Hiền-giả Sāriputta, những pháp gì cần phải như lý tác ý?
8. - Với Tỷ-kheo đã chứng quả Dự lưu, này Hiền-giả Koṭṭhika, cần phải như lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô ngã.
9. Sự kiện này có thể xảy ra, này Hiền-giả, Tỷ-kheo Dự lưu, do như lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô ngã, có thể chứng được quả Nhứt lai.
10. - Nhưng Tỷ-kheo Nhứt lai, này Hiền-giả Sāriputta, phải như lý tác ý các pháp gì?
11. - Tỷ-kheo Nhứt lai, này Hiền-giả Koṭṭhika, phải như lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô ngã.
12. Sự kiện này có thể xảy ra, này Hiền-giả, Tỷ-kheo Nhứt lai, do như lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô ngã, có thể chứng được quả Bất lai.
13. - Nhưng Tỷ-kheo Bất lai, này Hiền-giả Sāriputta, cần phải như lý tác ý những pháp gì?
14. - Tỷ-kheo Bất lai, này Hiền-giả Koṭṭhika, cần phải như lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô ngã.
15. Sự kiện này có thể xảy ra, này Hiền-giả, Tỷ-kheo Bất lai, do như lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô ngã, có thể chứng được quả A-la-hán.
16. - Nhưng vị A-la-hán, này Hiền-giả Sāriputta, cần phải như lý tác ý các pháp gì?
17. - Vị A-la-hán, này Hiền-giả Koṭṭhika, cần phải như lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô ngã.

18. Với vị A-la-hán, này Hiền-giả, không có gì phải làm nữa, hay không có phải thêm gì nữa trong công việc làm. Nhưng sự tu tập, làm cho sung mãn những pháp này sẽ đưa đến hiện tại lạc trú và chánh niệm tỉnh giác.