NAMO TASSA BHAGAVATO ARAHATO SAMMASAMBUDDHASA

Chánh Pháp (Phật Pháp)

Chánh Pháp mà đức Thế Tôn đã khéo thuyết giảng"thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu".

Chánh Pháp ấy là Bốn Thánh Đế và sự tu tập chân chánh là sự thực hành con đường Thánh Đạo Tám Ngành (còn được gọi là: Bát Chánh Đạo, hay Bát Thánh Đạo): Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định; y chỉ viễn ly, y chỉ ly tham, y chỉ đoạn diệt, y chỉ từ bỏ; là con đường duy nhất đưa đến đoạn tận Tham Sân Si, chấm dứt khổ đau, chấm dứt sanh tử luân hồi, chứng ngộ Niết Bàn.

Chúng ta hãy thường xuyên ôn tập và ghi nhớ lời dạy sau đây của đức Phật để tự nhắc mình luôn tinh tấn tu tập Thánh Đạo Tám Ngành:

  • "Vô thỉ là luân hồi này, này các Tỷ-kheo, khởi điểm không thể nêu rõ đối với sự lưu chuyển luân hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc".
  • "Này các Tỷ-kheo, do không giác ngộ, do không thông đạt Bốn Thánh Đế mà Ta và các Ông lâu ngày phải dong ruổi, lưu chuyển như thế này. Thế nào là bốn? Thánh đế về Khổ, Thánh đế về Khổ tập, Thánh đế về Khổ diệt, Thánh đế về Con Ðường đưa đến Khổ diệt".
  • "Này các Tỷ-kheo, một cố gắng cần phải làm để rõ biết: "Ðây là Khổ".
  • Một cố gắng cần phải làm để rõ biết: "Ðây là Khổ tập".
  • Một cố gắng cần phải làm để rõ biết: "Ðây là Khổ diệt".
  • Một cố gắng cần phải làm để rõ biết: "Ðây là Con đường đưa đến Khổ diệt"".
  • "Này các Tỷ-kheo, Thánh đế về Khổ, cần phải liễu tri.
  • Thánh đế về Khổ tập cần phải đoạn tận.
  • Thánh đế về Khổ diệt cần phải chứng ngộ.
  • Thánh đế về Con đường đưa đến Khổ diệt cần phải tu tập".

(trích Kinh Tương Ưng Bộ)

--------------------------------------------------------------------------------------------------------

Popular Posts

Showing posts with label KINH TIỂU BỘ. Show all posts
Showing posts with label KINH TIỂU BỘ. Show all posts

Wednesday, October 22, 2014

2.8. Trích Kinh Các Vấn Đề Được Nói Đến, (Kinh Đàm Luận) Kathāvatthusuttaṃ, KTC-3 Pháp

2.8. Trích Kinh Các Vấn Đề Được Nói Đến, (Kinh Đàm Luận) Kathāvatthusuttaṃ, KTC-3 Pháp

Nói chuyện với hiềm thù,
Thiên chấp và kiêu mạn,
Nghịch lại đức bậc Thánh,
Bới móc lỗi lầm nhau.
Thích nghe nói xấu người,
Người lầm, người bối rối,
Người bị thua, bị hại,
Bậc Thánh không làm vậy.
Nếu muốn cùng luận đàm,
Bậc hiền biết thời gian,
Câu chuyện của bậc Thánh,
Liên hệ pháp, pháp nghĩa.
Người có trí nói chuyện,
Không hiềm thù kiêu mạn,
Với tâm không chấp trước,
Không hiềm hận độc đoán.
Không để tâm lơ đãng,
Nói lên với chánh trí,
Hoan hỷ lời khéo nói,
Không vui lời vụng về.
Không học cách chỉ trích,
Không chụp sơ hở người,
Không nhiếc mắng, đánh đập,
Không nói lời vu vơ.

Lời nói của bậc Thánh,
Vừa dạy, vừa hoan hỷ,
Như vầy bậc Thánh nói,
Như vầy bậc Thánh đàm (luận),
Bậc trí biết rõ vậy,
Nói lời thật khiêm tốn.

2.7. Kinh Sân Hận Tám Kệ, Tiểu Bộ-Kinh Tập

2.7.  Kinh Sân Hận Tám Kệ, Tiểu Bộ-Kinh Tập

785. Thật có một số người
Nói lên với ác ý,
Và thật cũng có người,
Nói lên ý chân thật,
Dầu có lời nói gì,
Ẩn sĩ không liên hệ,
Do vậy bậc Mâu-ni,
Không chỗ nào hoang vu.
786. Người ước muốn dắt dẫn,
Thiên trú điều sở thích,
Làm sao từ bỏ được,
Ðiều tà kiến của mình,
Khi tự mình tác thành,
Quan điểm riêng của mình,
Như điều họ được biết,
Hãy để nó nói vậy.
787. Người không có ai hỏi,
Lại nói cho người khác,
Biết đến những giới cấm,
Của tự cá nhân mình,
Bậc thiện xảo nói rằng,
Như vậy không Thánh Pháp,
Nếu ai tự nói lên,
Lời tán thán tự ngã.
788. Vị Tỷ-kheo an tịnh,
Sống hết sức tịch tịnh,
Khi tán thán giới đức,
Không nói "Tôi là vậy",
Bậc thiện xảo nói rằng,
Như vậy là Thánh Pháp,
Với vị ấy đề cao,
Ở đời, không khởi lên.
789. Với những ai, các Pháp,
Ðược sửa soạn, tác thành,
Ðược đặt ra phía trước,
Không phải không tranh luận,
Khi đã thấy lợi ích,
Trên tự thân của mình,
Y đấy, duyên dao động,
Ðạt được sự tịch tịnh.
790. Ðối với các thiên kiến,
Không dễ gì vượt qua,
Thẩm sát các Pháp xong,
Mới tác thành chấp trước,
Do vậy là con người,
Ðối với trú xứ ấy,
Có khi quyết từ bỏ,
Có khi chấp nhận Pháp.
791. Vị tẩy sạch, loại bỏ,
Không tìm được ở đời,
Các kiến được sửa soạn,
Ðối với hữu, phi hữu,
Bỏ man trá, kiêu mạn,
Vị tẩy sạch, loại bỏ,
Vị ấy đi với gì,
Vị ấy không chấp thủ.

792. Với ai có chấp thủ,
Bị chỉ trích trong Pháp,
Với ai không chấp thủ,
Lấy gì có thể nói?
Chính đối với vị ấy,
Ngã, phi ngã đều không,
Vị ấy đã tẩy sạch,
Mọi tà kiến ở đời.

2.6. Kinh Con Đường Mau Chóng, Tiểu Bộ-Kinh Tập

2.6. Kinh Con Đường Mau Chóng, Tiểu Bộ-Kinh Tập (Sn IV, 14)

Người hỏi:
919. Con hỏi bậc Ðại tiên,
Bậc bà con mặt trời,
Con đường đến viễn ly,
Con đường đến an tịnh,
Tỷ-kheo sau khi thấy,
Làm thế nào mát lạnh,
Không có sự chấp thủ,
Một vật gì ở đời?
Thế Tôn:
920. Thế Tôn đáp như sau:
Hãy chặt đứt hoàn toàn,
Gốc rễ các hý luận,
Mọi tư tưởng "tôi là ",
Tất cả phải chấm dứt,
Phàm có nội ái nào,
Sau khi nhiếp phục chúng,
Thường chánh niệm học tập.
921. Phàm có loại Pháp gì,
Ðược thắng tri hoàn toàn,
Hoặc thuộc về nội Pháp,
Hay thuộc về ngoại Pháp,
Chớ có làm kiên trì,
Bất cứ một Pháp nào,
Trạng thái ấy không gọi,
Sự mát lạnh của tịnh.
922. Chớ có nghĩ như sau:
Cái kia là tốt hơn,
Ðây là hạ liệt hơn,
Hay đây là ngang bằng,
Do phải bị xúc chạm,
Với các sắc sai biệt,
Hãy chớ để tự mình,
An trú trên vọng tưởng.
923. Hãy giữ được an tịnh,
Về phía tự nội tâm,
Tỷ-kheo không cầu tìm,
An tịnh từ chỗ khác,
Với người được an tịnh,
Từ phía tự nội tâm,
Ðã không có tự ngã,
Từ đâu có vô ngã?
924. Như chính giữa trung ương,
Của biển cả đại dương,
Sóng biển không có sanh,
Biển hoàn toàn đứng lặng,
Cũng vậy, này Tỷ-kheo,
Hãy đứng lặng, không động,
Không có sự bồng bột,
Náo nức ở giữa đời.
Người hỏi:
925. Vị có mắt rộng mở,
Ðã tuyên bố rõ ràng,
Pháp có thể chế ngự,
Mọi nguy hiểm khó khăn,
Bậc Hiền-thiện, mong Ngài,
Tuyên bố rõ con đường,
Hay về biệt giải thoát,
Hoặc về Pháp Thiền-định?
Thế Tôn:
926. Chớ có những con mắt,
Ðầy dẫy những tham đắm,
Hãy chận đứng lỗ tai,
Nghe câu chuyện của làng,
Lại chớ nên đắm say,
Các mùi vị ngon lành,
Chớ xem là của ta,
Mọi sự vật ở đời!
927. Trong khi được cảm giác,
Với các loại cảm xúc,
Tỷ-kheo không than van,
Bất cứ một điều gì,
Vị ấy không cầu mong,
Dầu lại sanh hữu nào,
Và không có run sợ,
Rơi vào các kinh hoàng.
928. Các đồ ăn thâu được,
Cùng với các đồ uống,
Các món ăn nhai được,
Các đồ vải mặc được,
Chớ có cất chứa chúng,
Những đồ vật nhận được,
Chớ có quá lo âu,
Nếu không thâu được chúng.
929. Hãy tu tập Thiền-định,
Chớ làm kẻ lang thang,
Chớ ưa thích trạo cử,
Ðừng rơi vào phóng dật,
Ðối với các chỗ ngồi,
Cùng với các chỗ nằm,
Tỷ-kheo hãy an trú,
Những chỗ không tiếng động.
930. Ngủ nghỉ có chừng mực,
Chớ có ngủ quá nhiều,
Hãy luôn luôn tỉnh thức,
Nỗ lực và nhiệt tâm,
Hãy từ bỏ biếng nhác,
Man trá, cười, chơi đùa,
Hãy từ bỏ dâm dục,
Bỏ ưa thích trang điểm.
931. Chớ có dùng bùa chú,
Atharva Veda (Āthabbaṇa),
Chớ tổ chức đoán mộng,
Coi tướng và xem sao,
Mong rằng đệ tử Ta,
Không đoán tiếng thú kêu,
Không chữa bệnh không sanh,
Không hành nghề lang băm.
932. Tỷ-kheo không run sợ,
Khi bị người chỉ trích,
Cũng không có cống cao,
Khi được khen, tán thán,
Hãy từ bỏ tham ái,
Cùng với tánh xan tham,
Kể luôn cả phẫn nộ,
Cùng với nói hai lưỡi.
933. Tỷ-kheo không an trú,
Trong nghề nghiệp bán buôn,
Lại không có chỉ trích,
Bất cứ tại chỗ nào,
Khi ở tại thôn làng,
Không tức giận một ai,
Chớ có vì lợi dưỡng,
Nói chuyện với quần chúng.
934. Tỷ-kheo không nên nói,
Khoa trương quá mức độ,
Và cũng không nói lời,
Có dụng ý lợi dưỡng,
Chớ có học tập theo,
Lối sỗ sàng, trâng tráo,
Chớ có thốt ra lời,
Khiêu khích xung đột ai.
935. Chớ có bị dắt dẫn,
Rơi vào lời nói láo,
Không cố ý làm nên,
Ðiều man trá, giả dối,
Chớ có khinh người khác,
Về vấn đề sinh mạng,
Về vấn đề trí tuệ,
Và vấn đề giới hạnh.
936. Sau khi phẫn uất nghe,
Nhiều ngôn từ lời lẽ,
Của các vị Sa-môn,
Hay những kẻ phàm phu,
Chớ có phản ứng họ,
Với những lời thô ác,
Bậc hiền lành an tịnh,
Không phản pháo một ai.
937. Sau khi rõ biết được,
Pháp này là như vậy,
Tỷ-kheo hãy học tập,
Sáng suốt và chánh niệm,
Rõ biết sự mát lạnh,
Ðược gọi: "bậc an tịnh",
Chớ có sống phóng dật,
Trong lời dạy Cù-đàm.

938. Bậc đã được chiến thắng,
Không ai chiến thắng nổi,
Tự mình thấy được Pháp,
Không nghe theo tin đồn,
Do vậy, hãy học tập,
Luôn luôn không phóng dật,
Với tâm tư cung kính,
Lời dạy đức Thế Tôn,
Thế Tôn nói như vậy.

2.5. Kinh Thế Nào Là Giới, Tiểu Bộ-Kinh Tập

2.5.    Kinh Thế Nào Là Giới, Tiểu Bộ-Kinh Tập (Sn II, 9)

324. Thế nào là giới đức?
Thế nào là chánh hạnh?
Cần phải làm tăng trưởng,
Thân, khẩu, ý, nghiệp nào?
Ðể người chánh nhập cuộc,
Ðạt được đích tối thượng?
325. Kính lễ bậc trưởng thượng,
Không ganh tị một ai,
Cần phải biết thời gian,
Ðể yết kiến Ðạo sư,
Biết được đúng thời khắc,
Thuyết Pháp bắt đầu giảng,
Hãy cẩn thận lắng nghe,
Lời giảng được khéo nói.
326. Hãy đi đến đúng thời,
Trước mặt vị Ðạo Sư,
Từ bỏ tánh cứng đầu,
Với thái độ khiêm tốn,
Hãy nhớ nghĩ, ức niệm,
Hãy chơn chánh hành trì,
Mục đích và Chánh Pháp,
Chế ngự và Phạm-hạnh.
327. Vui thích trong Chánh Pháp,
Hoan hỷ trong Chánh Pháp,
An trú trên Chánh Pháp,
Biết phân tích Chánh Pháp,
Sở hành không làm gì,
Có lời uế nhiễm Pháp,
Chịu hướng dẫn, lãnh đạo,
Lời trung thực khéo nói.
328. Bỏ cười đùa, lắm miệng,
Khóc than và sân hận,
Làm những điều man trá,
Lừa đảo, tham, kiêu mạn,
Bồng bột và bạo ngôn,
Cứng rắn và đam mê,
Sống từ bỏ tất cả,
Ly say đắm, kiên trì.
329. Thức tri được cốt lõi,
Những lời được khéo nói,
Ðươc nghe, khéo thức tri,
Cốt lõi của Thiền-định,
Với con người hấp tấp,
Lại phóng dật, buông lung,
Trí tuệ, đều được nghe,
Không có thể tăng trưởng.

330. Ai vui thích Chánh Pháp,
Do bậc Thánh tuyên thuyết,
Họ trở thành vô thượng,
Về lời, ý và nghiệp,
Họ an tịnh, nhu hòa,
An trú trên Thiền-định,
Chứng đạt được cốt lõi,
Pháp được nghe, trí tuệ.

2.4. Kinh Từ Bi, Tiểu Bộ-Kinh Tập

2.4.  Kinh Từ Bi, Tiểu Bộ-Kinh Tập (Sn I, 8)[1]

143. Vị thiện xảo mục đích,
Cần phải làm như sau:
Sau khi hiểu thông suốt,
Con đường an tịnh ấy,
Có khả năng, trực tánh,
Thật sự, khéo chân trực,
Dễ nói và nhu hòa,
Không có gì cao mạn.
144. Sống cảm thấy vừa đủ,
Nuôi sống thật dễ dàng,
Ít có sự rộn ràng,
Sống đạm bạc giản dị,
Các căn được tịnh lạc,
Khôn ngoan và thận trọng,
Không xông xáo gia đình,
Không tham ái, tham vọng.
145. Các sở hành của mình,
Không nhỏ nhen vụn vặt,
Khiến người khác có trí,
Có thể sanh chỉ trích,
Mong mọi loài chúng sanh,
Ðược an lạc, an ổn,
Mong họ chứng đạt được,
Hạnh phúc và an lạc.
146. Mong tất cả những ai,
Hữu tình có mạng sống,
Kẻ yếu hay kẻ mạnh,
Không bỏ sót một ai,
Kẻ dài hay kẻ lớn,
Trung, thấp, loài lớn, nhỏ.
147. Loài được thấy, không thấy,
Loài sống xa, không xa,
Các loài hiện đang sống,
Các loài sẽ được sanh,
Mong mọi loài chúng sanh,
Sống hạnh phúc, an lạc.
148. Mong rằng không có ai,
Lường gạt, lừa dối ai,
Không có ai khinh mạn,
Tại bất cứ chỗ nào,
Không vì giận hờn nhau,
Không vì tưởng chống đối,
Lại có người mong muốn,
Làm đau khổ cho nhau.
149. Như tấm lòng người mẹ,
Ðối với con của mình,
Trọn đời lo che chở,
Con độc nhất mình sanh,
Cũng vậy, đối tất cả,
Các hữu tình, chúng sanh,
Hãy tu tập tâm ý,
Không hạn lượng rộng lớn.
150. Hãy tu tập Từ tâm,
Trong tất cả thế giới,
Hãy tu tập tâm ý,
Không hạn lượng, rộng lớn,
Phía trên và phía dưới,
Cũng vậy, cả bề ngang,
Không hạn chế, trói buộc,
Không hận, không thù địch.
151. Khi đứng, hay khi đi,
Khi ngồi, hay khi nằm,
Lâu cho đến khi nào,
Khi đang còn tỉnh thức,
Hãy an trú niệm này,
Nếp sống này như vậy,
Ðược đời đề cập đến,
Là nếp sống tối thượng.
152. Ai từ bỏ tà kiến,
Giữ giới, đủ chánh kiến,
Nhiếp phục được tham ái,
Ðối với các dục vọng,
Không còn phải tái sanh,
Ði đến thai tạng nữa.




[1] Bài kinh khác trong Tiểu Bộ: Kinh Lòng Từ, Tiểu Bộ-kinh Tiểu Tụng

2.3. Kinh Già [Ôn niệm để diệt trừ Dục Tham]

[Ôn niệm để diệt trừ Dục Tham]

(Sn IV, 6) Kinh Già: Jarāsuttaṃ (Kinh Tiểu Bộ - Kinh Tập)


809. Sinh mạng này ngắn thay,
Trong trăm năm, rồi chết,
Nếu ai sống hơn nữa,
Rồi cũng chết vì già.
810. Loài người sầu vì ngã,
Mọi chấp thủ vô thường,
Trống không là đời này,
Thấy vậy sống không nhà.
811. Vì loài người nghĩ rằng:
Cái này là của tôi,
Cái ấy bị sự chết,
Làm hoại diệt, hư tàn,
Biết vậy, bậc Hiền-trí,
Không gọi, không hướng đến,
Cái này ngã của ta,
Cái này là của ta.
812. Như những gì hiện lên,
Trong giấc ngủ mộng mị,
Con người khi tỉnh dậy,
Không còn thấy được gì,
Cũng vậy ở đời này,
Người được ưa, ái luyến,
Rồi sẽ chết, mất đi,
Không ai còn thấy được.
813. Các loại hạng người ấy,
Ðược thấy và được nghe,
Nên họ được gọi tên,
Tên này hay tên khác,
Với người đã chết đi,
Chỉ được gọi tên không,
Vì chỉ có tên suông,
Sẽ được còn tồn tại.
814. Tham đắm cái của ta,
Họ không có từ bỏ,
Sầu khổ và than vãn,
Cùng xan tham, keo kiết,
Do vậy bậc ẩn sĩ,
Sau khi bỏ chấp thủ,
Ðã sống một đời sống,
Thấy được sự an ổn.
815. Ðối với vị Tỷ-kheo,
Sống thanh vắng một mình,
Sống tu tập tâm ý,
Hướng đến hạnh viễn ly,
Nếp sống vậy được nói,
Hòa hợp với vị ấy,
Và không nêu tự ngã,
Trong hiện hữu của mình.
816. Vị ẩn sĩ không tựa,
Không y chỉ một ai,
Không làm thành thương yêu,
Không tác thành ghét bỏ,
Do vậy trong sầu than,
Trong xan tham, keo kiết,
Như nước trên lá cây,
Không dính ướt, làm nhơ.
817. Giống như một giọt nước,
Không dính ướt hoa sen,
Như nước trên bông sen,
Không dính ướt, làm nhơ,
Ðối với vật thấy, nghe,
Ðược cảm thọ, tưởng đến,
Cũng vậy bậc ẩn sĩ,
Không dính ướt tham đắm.
818. Do vậy bậc tẩy sạch,
Không có suy tư đến,
Ðiều được thấy, được nghe,
Ðược cảm thọ, tưởng đến.
Vị ấy muốn thanh tịnh,
Không có dựa gì khác,
Vị ấy không tham đắm,
Cũng không có ly tham.




Tuesday, October 21, 2014

2.2. Kinh Thắng Trận [Quán Thân Bất Tịnh]

[Quán Thân Bất Tịnh]

(Sn I, 11) Kinh Thắng Trận: Vijayasuttaṃ (kinh Tập)



193. Hoặc là đi hay đứng,
Hoặc là ngồi hay nằm,
Hoặc co tay, duỗi tay,
Như vậy, thân dao động.
194. Ràng buộc với xương gân,
Trét thoa với da thịt,
Thân được da che đậy,
Như thật, không thấy rõ.
195. Trong một bụng chứa đầy,
Cục gan, và bọng đái,
Quả tim và buồng phổi,
Cả thận, và tỳ tạng.
196. Nước mũi, và nước miếng,
Mồ hôi, và nước mỡ,
Máu, và nước khớp xương,
Mật, và bạch huyết cầu.
197. Từ chín nguồn nước này,
Bất tịnh luôn luôn chảy,
Từ mắt, đồ bẩn chảy,
Từ tai, đồ bẩn chảy.
198. Nước mũi từ lỗ mũi,
Từ miệng, có khi chảy,
Chảy mật, và niêm dịch,
Từ thân, mồ hôi bẩn.
199. Trong đầu thật trống rỗng,
Chứa đầy những óc, não,
Bị vô minh dắt dẫn,
Kẻ ngu nghĩ tịnh sạch.
200. Khi bị chết nằm xuống,
Phồng lên, và xanh bầm,
Quăng bỏ trong nghĩa địa,
Bà con không đoái hoài.
201. Chó, dã can đến ăn,
Chó sói, các côn trùng,
Quạ, diều hâu đến ăn,
Còn có hữu tình khác.
202. Ðược nghe lời Phật dạy,
Tỷ-kheo có trí tuệ,
Vị ấy liễu tri thân,
Thấy thân đúng như thật.
203. Ðây thế nào, kia vậy,
Kia thế nào, đây vậy,
Ðối với thân trong, ngoài,
Từ bỏ mọi lòng dục.
204. Từ bỏ lòng tham dục,
Đây Tỷ-kheo có tuệ,
Chứng bất tử, tịch tịnh,
Niết-bàn giới thường trú.
205. Thân này với hai chân,
Bất tịnh và hôi thúi,
Ðầy xác chết, chảy nước,
Lại được giữ, nâng niu.
206. Với thân thể như vậy,
Ai lại nghĩ đề cao,
Hay khinh miệt kẻ khác,
Trừ kẻ không thấy gì.




2.1. Kinh Dhammika, Tiểu Bộ -Kinh Tập (Sn II, 14)

2.1      Kinh Dhammika, Tiểu Bộ -Kinh Tập (Sn II, 14)

Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở Sāvatthī, tại Jetavana, trong khu vườn ông Anāthapiṇḍika. Rồi nam cư-sĩ Dhammika đi đến Thế Tôn với năm trăm nam cư-sĩ, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, nam cư-sĩ Dhammika nói lên những bài kệ với Thế Tôn:
Dhammika:
376. Kính thưa Gotama,
Bậc trí tuệ rộng lớn,
Con xin kính hỏi Ngài,
Vấn đề đặc biệt này:
Với vị đệ tử Ngài,
Làm thế nào là thiện?
Nếu là vị xuất gia,
Bỏ nhà, sống không nhà,
Hay là vị có nhà,
Sống đời nam cư-sĩ?
377. Ngài rõ biết đường đi,
Cùng mục đích tối hậu,
Của Thế Tôn, đời này,
Và thế giới chư thiên,
Không ai sánh bằng Ngài,
Bậc thấy nghĩa thù diệu,
Chính Ngài được tôn xưng,
Là đức Phật thù thắng.
378. Ngài biết tất cả trí,
Ngài trình bày Chánh Pháp,
Vì lòng thương, từ mẫn,
Ðối với mọi chúng sanh,
Ngài mở rộng bức màn,
Bậc có mắt mọi nơi,
Không cấu uế, thanh tịnh,
Ngài chói toàn thế giới.
379. Vị vua loài Nāgā,
Tên Erāvaṇo,
Ðã đến gần bên Ngài,
Ðược nghe: Ngài chiến thắng,
Vị ấy tìm đến Ngài,
Ðể nghe lời khuyên nhủ,
Sau khi nghe, thích thú,
Nói lên lời: " Lành thay!"
380. Vua Vessavaṇa,
Kuvera đến Ngài,
Tìm hiểu hỏi han Ngài,
Về vấn đề diệu Pháp,
Ðược hỏi, ôi bậc trí,
Hãy nói lên cho vua,
Sau khi nghe, vị ấy,
Cũng thích thú, ưa thích.
381. Các bậc ngoại đạo này,
Ưa luận tranh khẩu chiến,
Các tà mạng ngoại đạo,
Hay các Ni-kiền Tử,
Tất cả không vượt qua,
Hơn thắng trí của Ngài,
Như người đang đứng lại,
Không thắng kẻ đi mau.
382. Các Bà-la-môn này,
Ưa luận tranh khẩu chiến,
Có những bậc Phạm-chí,
Ðã đến tuổi trưởng thượng,
Tất cả đều trói buộc,
Bởi tư tưởng của Ngài,
Kể cả những hạng người,
Tự phụ, nói khoe khoang.
383. Pháp này là tế nhị,
Ðem lại nguồn an lạc,
Ðã được bậc Thế Tôn,
Khéo nói, khéo thuyết giảng,
Tất cả mọi hạng người,
Ðều thích thú, ưa nghe,
Ðược hỏi, hãy nói lên,
Ôi đức Phật tối thượng.
384. Các vị Tỷ-kheo này,
Ðang ngồi đây tất cả,
Kể cả nam cư-sĩ,
Tất cả đều chờ nghe,
Hãy để họ nghe Pháp,
Bậc Vô uế Giác-ngộ,
Như chư Thiên nghe lời,
Vāsava khéo nói.
Thế Tôn:
385. Tỷ-kheo, hãy nghe Ta,
Ta khiến các Thầy nghe,
Pháp đoạn trừ điều ác,
Tất cả hãy trọ trì,
Với ai thấy ý nghĩa,
Nghĩ ngợi, có suy tư,
Hãy sống theo chánh hạnh,
Thích hợp với xuất gia.
386. Tỷ-kheo chớ ra ngoài,
Trong thời gian phi thời,
Hãy vào làng khất thực,
Ðúng thời, thì hãy đi,
Ai đi đứng phi thời,
Bị bẫy sập trói buộc,
Do vậy các đức Phật,
Không có đi phi thời.
387. Các sắc và các tiếng,
Các vị, hương và xúc,
Chính những loại Pháp ấy,
Làm mê hoặc chúng sanh,
Hãy nhiếp phục lòng dục,
Ðối với các Pháp ấy,
Hãy vào cho đúng thời,
Ðể dùng buổi ăn sáng.
388. Tỷ-kheo được đúng thời,
Các đồ ăn khất thực,
Hãy đi về một mình,
Ngồi tại chỗ an tịnh,
Suy tư hướng nội tâm,
Ý không chạy ra ngoài,
Làm cho thoát ra khỏi,
Mọi chấp thủ tự ngã.
389. Nếu vị ấy có nói,
Với một vị đệ tử,
Hay nói với một vị,
Một Tỷ-kheo nào khác,
Hãy nói cho vị ấy,
Sự thù diệu Chánh Pháp,
Không có nói hai lưỡi,
Không bài xích một ai.
390. Nhưng có những hạng người,
Dùng khẩu chiến bằng lời,
Những hạng người tuệ nhỏ,
Chúng ta không tán thán,
Triền phược trói buộc họ,
Từ chỗ này, chỗ kia,
Ở đây họ dẫn tâm,
Ðưa tâm đi quá xa.
391. Ðồ khất thực, tịnh-xá,
Cùng sàng tọa, trú xứ,
Nước để trừ bụi nhớp,
Y áo Tăng-già-lê,
Sau khi nghe Chánh Pháp,
Do Thiện Thệ thuyết giảng,
Bậc đệ tử thắng tuệ,
Quán sát, hãy dùng chúng.
392. Do vậy đồ khất thực,
Sàng tọa và trú xứ,
Nước để trừ bụi nhớp,
Y áo Tăng-già-lê,
Ðối với những Pháp ấy,
Ðừng để cho dính nhiễm,
Tỷ-kheo như giọt nước,
Không dính trên lá sen.
393. Trách nhiệm của gia chủ,
Ta cũng nói các Ông,
Làm theo đúng như vậy,
Ðệ tử là tốt lành,
Pháp Tỷ-kheo toàn diện,
Khó thành tựu đầy đủ,
Vì là người gia chủ,
Phải làm nhiều việc đời.
394. Chớ giết loài hữu tình,
Chớ bảo người giết hại,
Hay chấp nhận kẻ khác,
Giết hại các hữu tình,
Ðối với mọi sanh loại,
Từ bỏ các hành phạt,
Ðối với kẻ mạnh bạo,
Như đối kẻ run sợ.
385. Rồi hãy quyết từ bỏ,
Lấy của không được cho,
Ðệ tử khéo sáng suốt,
Vật gì, vật của ai,
Chớ khiến người khác lấy,
Chớ chấp nhận lấy trộm,
Hãy từ bỏ, chấm dứt,
Mọi của cải không cho.
396. Hãy từ bỏ, tránh xa,
Ðời sống phi Phạm-hạnh,
Như bậc trí tránh né,
Lửa cháy hố than hừng,
Nếu tự mình bất lực,
Không thể sống Phạm-hạnh,
Thời chớ có xâm phạm,
Vợ của các người khác.
397. Khi đi đến hội chúng,
Hay đi đến đoàn chúng,
Hay một mình một người,
Chớ nói lời nói láo,
Chớ khiến người nói láo,
Chớ chấp nhận nói láo,
Tất cả điều không thật,
Hãy tránh xa, từ bỏ.
398. Chớ sống theo nếp sống,
Uống rượu và say rượu,
Với vị là cư-sĩ,
Ðã chấp nhận Pháp này,
Chớ khiến người uống rượu,
Chớ chấp thuận uống rượu,
Sau khi biết uống rượu,
Cuối đường là điên cuồng.
399. Chỉ kẻ ngu say rượu,
Mới làm các điều ác,
Và khiến các người khác,
Sống buông lung, phóng dật,
Hãy từ bỏ, tránh xa,
Xứ phi công đức này,
Khiến điên cuồng, si mê,
Làm kẻ ngu thỏa thích.
400. Chớ có giết hữu tình,
Chớ lấy của không cho,
Chớ nói láo không thật,
Chớ uống rượu say mê,
Từ bỏ phi Phạm-hạnh,
Không hành trì dâm dục,
Không có ăn ban đêm,
Không ăn lúc phi thời.
401. Chớ mang các vòng hoa,
Chớ dùng các nước thơm,
Hãy nằm trên mặt đất,
Trên thảm chiếu trải dài,
Tám hạnh này được gọi,
Là hạnh ngày trai giới,
Do đức Phật giảng dạy,
Ðể chấm dứt khổ đau.
402. Từ nay ngày trai giới,
Chia nửa tháng hai phần,
Ngày mười bốn, mười lăm,
Hay ngày tám mỗi tháng,
Với tâm ý hoan hỷ,
Thực hành Pháp thần thông,
Gồm có đủ tám phần,
Khéo vẹn toàn, đầy đủ.
403. Do vậy, vào buổi sáng,
Thực hành ngày trai giới,
Bậc có trí sáng suốt,
Với tâm tư tín thành,
Với tâm ý tùy hỷ,
Cúng dường Tỷ-kheo Tăng,
Với món ăn, đồ uống,
Hợp với khả năng mình.

404. Hãy nuôi dưỡng mẹ cha,
Hợp Pháp và đúng Pháp,
Và cũng đúng với Pháp,
Hãy làm nghề buôn bán,
Người gia chủ như vậy,
Sở hành không phóng dật,
Ðược sanh làm Thiên nhân,
Tên là: "Tự chói sáng".

Wednesday, October 1, 2014

Kinh Antaramalasuttaṃ [Sự nguy hại của Tham, Sân, Si]


Kinh Tiểu Bộ - Kinh Phật Thuyết Như Vậy 

(Tik. IV, 9) (It. 88): Antaramalasuttaṃ

Này các Tỷ-kheo, có ba nội uế, nội thù này, nội đối thủ, nội sát nhân, nội thù địch này. 

Thế nào là ba?
  • Tham, này các Tỷ-kheo, là nội uế, nội thù, nội đối thủ, nội sát thủ, nội sát nhân, nội thù địch. 
  • Sân, này các Tỷ-kheo, là nội uế, nội thù, nội đối thủ, nội sát thủ, nội sát nhân, nội thù địch. 
  • Si, này các Tỷ-kheo, là nội uế, nội thù, nội đối thủ, nội sát thủ, nội sát nhân, nội thù địch. 

Này các Tỷ-kheo, có ba nội uế, nội thù, nội đối thủ, nội sát thủ, nội sát nhân, nội thù địch này:


Tham sanh ra bất hạnh,
Tham làm tâm dao động,
Tham chính là sợ hãi,
Sanh ra từ bên trong,
Loài người không rõ biết,
Loại tham đặc biệt ấy,
Người tham không biết rõ,
Ðâu chính là lợi ích,
Người tham không thấy được,
Ðâu chính là Chánh Pháp,
Mù lòa và tối tăm,
Sẽ xuất hiện, có mặt,
Ở nơi một người nào,
Có tham cùng chung sống,
Ai đoạn trừ được tham,
Không tham vật đáng tham,
Với ai tham đoạn trừ,
Như giọt nước lá sen,

Sân sanh ra bất hạnh,
Sân làm tâm dao động,
Sân chính là sợ hãi,
Sanh ra từ bên trong,
Loài người không rõ biết,
Lòng sân đặc biệt ấy,
Người sân không biết rõ,
Ðâu chính là lợi ích,
Người sân không thấy được,
Ðâu chính là Chánh Pháp,
Mù lòa và tối tăm,
Sẽ xuất hiện, có mặt,
Ở nơi một người nào,
Có sân cùng chung sống,
Ai đoạn trừ được sân,
Không sân việc đáng sân,
Với ai, sân đoạn trừ,
Như quả cây sālā,
Ðược chặt đứt khỏi cành,

Si sanh ra bất hạnh,
Si làm tâm dao động,
Si chính là sợ hãi,
Sanh ra từ bên trong,
Loài người không rõ biết,
Lòng si đặc biệt ấy,
Người si không rõ biết,
Ðâu chính là lợi ích,
Người si không thấy được,
Ðâu chính là Chánh Pháp,
Mù lòa và tối tăm,
Sẽ xuất hiện, có mặt,
Ở nơi một người nào,
Có si cùng chung sống,
Ai đoạn trừ được si,
Không si việc đáng si,
Vị ấy quét sạch được,
Tất cả mọi si ám,
Như mặt trời mọc lên,
Quét sạch mọi tăm tối.

Friday, September 12, 2014

Kinh Thế Nào Là Giới

(Sn II, 9) Kinh Thế Nào Là Giới: Kiṃsīlasuttaṃ (trích Kinh Tiểu Bộ - Kinh Tập)

324. Thế nào là giới đức?
Thế nào là chánh hạnh?

Cần phải làm tăng trưởng,
Thân, khẩu, ý, nghiệp nào?
Ðể người chánh nhập cuộc,
Ðạt được đích tối thượng?

325. Kính lễ bậc trưởng thượng,
Không ganh tị một ai,
Cần phải biết thời gian,
Ðể yết kiến Ðạo sư,
Biết được đúng thời khắc,
Thuyết Pháp bắt đầu giảng,
Hãy cẩn thận lắng nghe,
Lời giảng được khéo nói.

326. Hãy đi đến đúng thời,
Trước mặt vị Ðạo Sư,
Từ bỏ tánh cứng đầu,
Với thái độ khiêm tốn,

Hãy nhớ nghĩ, ức niệm,
Hãy chơn chánh hành trì,
Mục đích và Chánh Pháp,
Chế ngự và Phạm-hạnh.

327. Vui thích trong Chánh Pháp,
Hoan hỷ trong Chánh Pháp,
An trú trên Chánh Pháp,
Biết phân tích Chánh Pháp,
Sở hành không làm gì,
Có lời uế nhiễm Pháp,
Chịu hướng dẫn, lãnh đạo,
Lời trung thực khéo nói.

328. Bỏ cười đùa, lắm miệng,
Khóc than và sân hận,
Làm những điều man trá,
Lừa đảo, tham, kiêu mạn,
Bồng bột và bạo ngôn,
Cứng rắn và đam mê,
Sống từ bỏ tất cả,
Ly say đắm, kiên trì.

329. Thức tri được cốt lõi,
Những lời được khéo nói,
Ðươc nghe, khéo thức tri,
Cốt lõi của Thiền-định,
Với con người hấp tấp,
Lại phóng dật, buông lung,
Trí tuệ, đều được nghe,
Không có thể tăng trưởng.

330. Ai vui thích Chánh Pháp,
Do bậc Thánh tuyên thuyết,
Họ trở thành vô thượng,
Về lời, ý và nghiệp,

    Họ an tịnh, nhu hòa,
An trú trên Thiền-định,
Chứng đạt được cốt lõi,
Pháp được nghe, trí tuệ.

Thursday, September 11, 2014

Kinh Tuvataka (Con Đường Mau Chóng)- Phần 2

Kinh Tuvataka (Con Đường Mau Chóng)  (Phần 2) – Kinh Tiểu Bộ

(Sn IV, 14) Kinh Tuvataka (Con Đường Mau Chóng): Tuvaṭakasuttaṃ 

Người hỏi:
925. Vị có mắt rộng mở,
Ðã tuyên bố rõ ràng,
Pháp có thể chế ngự,
Mọi nguy hiểm khó khăn,
Bậc Hiền-thiện, mong Ngài,
Tuyên bố rõ con đường,
Hay về biệt giải thoát,
Hoặc về Pháp Thiền-định?

Thế Tôn:
926. Chớ có những con mắt,
Ðầy dẫy những tham đắm,
Hãy chận đứng lỗ tai,
Nghe câu chuyện của làng,
Lại chớ nên đắm say,
Các mùi vị ngon lành,
Chớ xem là của ta,
Mọi sự vật ở đời!

927. Trong khi được cảm giác,
Với các loại cảm xúc,
Tỷ-kheo không than van,
Bất cứ một điều gì,
Vị ấy không cầu mong,
Dầu lại sanh hữu nào,
không có run sợ,
Rơi vào các kinh hoàng.

928. Các đồ ăn thâu được,
Cùng với các đồ uống,
Các món ăn nhai được,
Các đồ vải mặc được,
Chớ có cất chứa chúng,
Những đồ vật nhận được,
Chớ có quá lo âu,
Nếu không thâu được chúng.

929. Hãy tu tập Thiền-định,
Chớ làm kẻ lang thang,
Chớ ưa thích trạo cử,
Ðừng rơi vào phóng dật,
Ðối với các chỗ ngồi,
Cùng với các chỗ nằm,
Tỷ-kheo hãy an trú,
Những chỗ không tiếng động
.

930. Ngủ nghỉ có chừng mực,
Chớ có ngủ quá nhiều,
Hãy luôn luôn tỉnh thức,
Nỗ lực và nhiệt tâm,
Hãy từ bỏ biếng nhác,
Man trá, cười, chơi đùa,
Hãy từ bỏ dâm dục,
Bỏ ưa thích trang điểm.

931. Chớ có dùng bùa chú,
Atharva Veda (Āthabbaṇa),
Chớ tổ chức đoán mộng,
Coi tướng và xem sao,
Mong rằng đệ tử Ta,
Không đoán tiếng thú kêu,
Không chữa bệnh không sanh,
Không hành nghề lang băm.

932. Tỷ-kheo không run sợ,
Khi bị người chỉ trích,
Cũng không có cống cao,
Khi được khen, tán thán,
Hãy từ bỏ tham ái,
Cùng với tánh xan tham,
Kể luôn cả phẫn nộ,
Cùng với nói hai lưỡi.

933. Tỷ-kheo không an trú,
Trong nghề nghiệp bán buôn,
Lại không có chỉ trích,
Bất cứ tại chỗ nào,
Khi ở tại thôn làng,
Không tức giận một ai,
Chớ có vì lợi dưỡng,
Nói chuyện với quần chúng.

934. Tỷ-kheo không nên nói,
Khoa trương quá mức độ,
Và cũng không nói lời,
Có dụng ý lợi dưỡng,
Chớ có học tập theo,
Lối sỗ sàng, trâng tráo,
Chớ có thốt ra lời,
Khiêu khích xung đột ai.

935. Chớ có bị dắt dẫn,
Rơi vào lời nói láo,
Không cố ý làm nên,
Ðiều man trá, giả dối,
Chớ có khinh người khác,
Về vấn đề sinh mạng,
Về vấn đề trí tuệ,
Và vấn đề giới hạnh.

936. Sau khi phẫn uất nghe,
Nhiều ngôn từ lời lẽ,
Của các vị Sa-môn,
Hay những kẻ phàm phu,
Chớ có phản ứng họ,
Với những lời thô ác,
Bậc hiền lành an tịnh,
Không phản pháo một ai.

937. Sau khi rõ biết được,
Pháp này là như vậy,
Tỷ-kheo hãy học tập,
Sáng suốt và chánh niệm,
Rõ biết sự mát lạnh,
Ðược gọi: "bậc an tịnh",
Chớ có sống phóng dật,
Trong lời dạy Cù-đàm.


938. Bậc đã được chiến thắng,
Không ai chiến thắng nổi,
Tự mình thấy được Pháp,
Không nghe theo tin đồn,

Do vậy, hãy học tập,
Luôn luôn không phóng dật,
Với tâm tư cung kính,
Lời dạy đức Thế Tôn,
Thế Tôn nói như vậy.

Thursday, September 4, 2014

Kinh Tuvataka (Con Đường Mau Chóng)

Kinh Tuvataka (Con Đường Mau Chóng) – Kinh Tiểu Bộ

(Sn IV, 14) Kinh Tuvataka (Con Đường Mau Chóng): Tuvaṭakasuttaṃ
Người hỏi:
919. Con hỏi bậc Ðại tiên,
Bậc bà con mặt trời,
Con đường đến viễn ly,
Con đường đến an tịnh,
Tỷ-kheo sau khi thấy,
Làm thế nào mát lạnh,
Không có sự chấp thủ,
Một vật gì ở đời?
Thế Tôn:
920. Thế Tôn đáp như sau:
Hãy chặt đứt hoàn toàn,
Gốc rễ các hý luận,
Mọi tư tưởng "tôi là",
Tất cả phải chấm dứt,
Phàm có nội ái nào,
Sau khi nhiếp phục chúng,
Thường chánh niệm học tập.
921. Phàm có loại Pháp gì,
Ðược thắng tri hoàn toàn,
Hoặc thuộc về nội Pháp,
Hay thuộc về ngoại Pháp,
Chớ có làm kiên trì,
Bất cứ một Pháp nào,
Trạng thái ấy không gọi,
Sự mát lạnh của tịnh.
922. Chớ có nghĩ như sau:
Cái kia là tốt hơn,
Ðây là hạ liệt hơn,
Hay đây là ngang bằng,
Do phải bị xúc chạm,
Với các sắc sai biệt,
Hãy chớ để tự mình,
An trú trên vọng tưởng.
923. Hãy giữ được an tịnh,
Về phía tự nội tâm,
Tỷ-kheo không cầu tìm,
An tịnh từ chỗ khác,
Với người được an tịnh,
Từ phía tự nội tâm,
Ðã không có tự ngã,
Từ đâu có vô ngã?

924. Như chính giữa trung ương,
Của biển cả đại dương,
Sóng biển không có sanh,
Biển hoàn toàn đứng lặng,
Cũng vậy, này Tỷ-kheo,
Hãy đứng lặng, không động,
Không có sự bồng bột,
Náo nức ở giữa đời
.

Wednesday, September 3, 2014

Kinh Thanh Tịnh tám kệ

Kinh Thanh Tịnh tám kệ: Suddhaṭṭhakasuttaṃ (Sn IV, 4) – Kinh Tiểu Bộ

793. Ta thấy vị thanh tịnh,
Vị tối thượng, không bệnh,
Sự thanh tịnh con người,
Với tri kiến đạt được,
Nắm giữ quan điểm này,
Xem đấy là tối thượng,
Vị này sẽ xem trí,
Là tùy quán thanh tịnh.
794. Nếu thanh tịnh con người,
Do tri kiến đạt được,
Hay với trí vị ấy,
Từ bỏ sự đau khổ,
Vị ấy có sanh y,
Ngoài Thánh đạo được tịnh,
Vị ấy nói như vậy,
Do tri kiến cá nhân.
795. Bà-la-môn không nói,
Ngoài Thánh đạo được tịnh,
Với điều được thấy nghe,
Giới đức hay thọ tưởng,
Với công đức, ác đức,
Vị ấy không nhiễm trước,
Từ bỏ mọi chấp ngã,
Không làm gì ở đời.
796. Từ bỏ tri kiến cũ,
Y chỉ tri kiến mới,
Ði đến sự tham đắm,
Không vượt qua ái dục,
Họ nắm giữ chấp trước,
Họ từ bỏ, xa lánh,
Như khỉ thả cành này,
Rồi lại nắm cành khác,
797. Người tự mình chấp nhận,
Các chủng loại giới cấm,
Ði chỗ cao, chỗ thấp,
Sống bị tưởng chi phối,
Người có trí rộng lớn,
Nhờ trí tuệ, quán Pháp,
Có trí, không đi đến,
Các Pháp cao và thấp.
798. Vị ấy đạt thù thắng,
Trong tất cả các Pháp,
Phàm có điều thấy, nghe,
Hay cảm thọ, tưởng đến,

Với vị tri kiến vậy,
Sống đời sống rộng mở,
Không bị ai ở đời,
Có thể chi phối được.
799. Họ không tác thành gì,
Họ không đề cao gì,
Họ không có nói lên,
Ðây tối thắng thanh tịnh,
Không dính líu, tham đắm,
Mọi chấp trước triền phược,
Họ không tạo tham vọng,
Bất cứ đâu ở đời.

800. Với vị Bà-la-môn,
Ðã vượt khỏi biên giới,
Sau khi biết và thấy,
Không có kiến chấp trước,
Tham ái không chi phối,
Cũng không tham, ly tham,

Vị ấy ở đời này,
Không chấp thủ gì khác.