2.13. Kinh để Đoạn Trừ Thân Kiến, trích KTƯ
* Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế
nào? Sắc là thường hay vô thường?
--
Là vô thường, bạch Thế Tôn!
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
--
Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại,
có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này
là tự ngã của tôi"?
--
Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Do vậy, này các
Tỷ-kheo, phàm sắc gì quá khứ, vị lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô
hay tế, liệt hay thắng xa hay gần;tất cả sắc ấy cần phải như thật
quán với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi, cái này
không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
** Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Thọ là thường hay vô thường?
--
Là vô thường, bạch Thế Tôn!
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
--
Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại,
có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này
là tự ngã của tôi"?
--
Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Do vậy, này các
Tỷ-kheo, phàm thọ gì quá khứ, vị lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô
hay tế, liệt hay thắngxa hay gần; tất cả thọ ấy cần phải như thật quán với
chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi, cái này
không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
*** Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Tưởng là thường hay vô thường?
--
Là vô thường, bạch Thế Tôn!
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
--
Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại,
có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này
là tự ngã của tôi"?
--
Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Do vậy, này các
Tỷ-kheo, phàm tưởng gì quá khứ, vị lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô
hay tế, liệt hay thắng xa hay gần; tất cả tưởng ấy cần phải như thật quán với
chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi, cái này không
phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
****Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Hành là thường hay vô thường?
--
Là vô thường, bạch Thế Tôn!
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
--
Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại,
có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này
là tự ngã của tôi"?
--
Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Do vậy, này các Tỷ-kheo, phàm hành
gì quá khứ, vị lai, hiện tại, nội hay
ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả hành ấy cần phải như
thật quán với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi, cái này
không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
***** Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Thức là thường hay vô thường?
--
Là vô thường, bạch Thế Tôn!
-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
--
Là khổ, bạch Thế Tôn.
-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại,
có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này
là tự ngã của tôi"?
--
Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Do vậy, này các Tỷ-kheo, phàm thức
gì quá khứ, vị lai, hiện tại, nội hay
ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả thức ấy cần phải như
thật quán với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi, cái này
không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
Thấy vậy, này
các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử yếm
ly đối với sắc, yếm ly đối với thọ, yếm ly đối với tưởng, yếm ly đối với các hành, yếm ly đối với
thức.
Do yếm ly, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy
giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên: "Ta đã được giải
thoát".
Vị ấy
biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm
hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
(KTƯB
III, 127-1993)
Kinh Soṇa,
KTƯ-Uẩn
1. Như vầy tôi nghe. Một thời
Thế Tôn ở Rājagaha (Vương Xá), Veḷuvana (Trúc Lâm), tại chỗ nuôi dưỡng các con
sóc.
2. Rồi Soṇa, con một gia chủ,
đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên.
3. Thế Tôn nói với Soṇa,
con một gia chủ, đang ngồi một bên:
4. - Này Soṇa, những Sa-môn
hay Bà-la-môn nào quán sắc vô thường, khổ, biến
hoại là: "Ta tốt đẹp hơn", hay quán: "Ta bằng nhau",
hay quán: "Ta hạ liệt hơn"; những vị ấy đâu phải là những ai
khác, nếu không phải là những người
không thấy như thật!
5. Này Soṇa, những Sa-môn
hay Bà-la-môn nào quán thọ vô thường, khổ,
biến hoại là: "Ta tốt đẹp hơn", hay quán: "Ta bằng nhau",
hay quán: "Ta hạ liệt hơn"; những vị ấy đâu phải là những ai khác, nếu
không phải là những người không thấy như thật!
6. Này Soṇa, những Sa-môn
hay Bà-la-môn nào quán tưởng vô thường, khổ,
biến hoại là: "Ta tốt đẹp hơn", hay quán: "Ta bằng nhau",
hay quán: "Ta hạ liệt hơn"; những vị ấy đâu phải là những ai khác, nếu
không phải là những người không thấy như thật!
7. Này Soṇa, những Sa-môn
hay Bà-la-môn nào quán các hành vô thường,
khổ, biến hoại là: "Ta tốt đẹp hơn", hay quán: "Ta bằng
nhau", hay quán: "Ta hạ liệt hơn"; những vị ấy đâu phải là những
ai khác, nếu không phải là những người không thấy như thật!
8. Này Soṇa, những Sa-môn hay
Bà-la-môn nào quán thức vô thường, khổ,
biến hoại là: "Ta tốt đẹp hơn", hay quán: "Ta bằng nhau",
hay quán: "Ta hạ liệt hơn"; những vị ấy đâu phải là những ai khác, nếu
không phải là những người không thấy như thật!
9. Này Soṇa, những Sa-môn
hay Bà-la-môn nào không quán sắc vô thường,
khổ, biến hoại là: "Ta tốt đẹp hơn", hay không
quán: "Ta
bằng nhau", hay không quán: "Ta hạ liệt hơn"; những
vị ấy đâu phải là những ai khác, nếu không phải là
những vị thấy như thật!
10. Này Soṇa, những Sa-môn
hay Bà-la-môn nào không quán thọ vô thường,
khổ, biến hoại là: "Ta tốt đẹp hơn", hay không quán: "Ta bằng
nhau", hay không quán: "Ta hạ liệt hơn"; những vị ấy đâu phải là
những ai khác, nếu không phải là những vị thấy như thật!
11. Này Soṇa, những Sa-môn
hay Bà-la-môn nào không quán tưởng vô
thường, khổ, biến hoại là: "Ta tốt đẹp hơn", hay không quán: "Ta
bằng nhau", hay không quán: "Ta hạ liệt hơn"; những vị ấy đâu phải
là những ai khác, nếu không phải là những vị thấy như thật!
12. Này Soṇa, những Sa-môn
hay Bà-la-môn nào không quán các hành
vô thường, khổ, biến hoại là: "Ta tốt đẹp hơn", hay không quán:
"Ta bằng nhau", hay không quán: "Ta hạ liệt hơn"; những vị ấy
đâu phải là những ai khác, nếu không phải là những vị thấy như thật!
13. Này Soṇa, những Sa-môn
hay Bà-la-môn nào không quán thức vô
thường, khổ, biến hoại là: "Ta tốt đẹp hơn", hay không quán: "Ta
bằng nhau", hay không quán: "Ta hạ liệt hơn"; những vị ấy đâu phải
là những ai khác, nếu không phải là những vị thấy như thật!
14-18. Ông nghĩ thế nào,
này Soṇa, sắc…; thọ…; tưởng…;
các hành…; thức
là thường hay vô thường?
- Vô thường,
bạch Thế Tôn.
- Cái gì vô thường là khổ
hay lạc?
- Là khổ,
bạch Thế Tôn.
- Cái gì vô thường, khổ, chịu
sự biến hoại, có hợp lý chăng nếu quán cái ấy là: "Cái
này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi?"
- Thưa
không, bạch Thế Tôn.
19. - Do vậy, này Soṇa, phàm sắc gì, quá khứ, vị lai, hiện tại,
thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả sắc cần phải
như thật quán với chánh trí tuệ: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là
tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
20. Phàm
thọ gì, quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô
hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả thọ cần phải như thật quán với chánh
trí tuệ: "Cái
này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của
tôi".
21. Phàm
tưởng gì, quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại,
thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả tưởng cần phải như thật quán với
chánh trí tuệ: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi,
cái này không phải tự ngã của tôi".
22. Phàm
các hành gì, quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại,
thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả các hành cần phải như thật quán
với chánh trí tuệ: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi,
cái này không phải tự ngã của tôi".
23. Phàm
thức gì, quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô
hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả thức cần phải như thật quán với
chánh trí tuệ: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi,
cái này không phải tự ngã của tôi".
24. Nếu thấy vậy, này Soṇa,
vị đa văn Thánh đệ tử yếm ly đối với sắc, yếm ly đối với thọ, yếm ly đối với tưởng,
yếm ly đối với các hành, yếm ly đối với thức. Do yếm ly, vị
ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy giải thoát. Trong sự giải
thoát, khởi lên chánh trí: "Ta đã giải thoát". Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh
đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".