Saṅgārava: Saṅgāravasuttaṃ (Kinh Tương Ưng
Bộ - tập 5)
1. Nhân duyên ở
Sāvatthī.
2. Rồi Bà-la-môn
Saṅgārava đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói với Thế Tôn những lời chào đón hỏi
thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, vị ấy liền ngồi
xuống một bên.
3. Ngồi một bên, Bà-la-môn Saṅgārava thưa với Thế Tôn:
- Do nhân gì, do duyên gì, thưa
Tôn-giả Gotama, có khi các chú
thuật (mantā) mà tôi học
thuộc lòng lâu ngày (sajjhāyakatāpi: đọc tụng) lại không nhớ đến được, còn nói
gì các chú thuật không được học thuộc lòng? Do nhân gì, do duyên gì, thưa
Tôn-giả Gotama, có khi các chú thuật mà tôi không học thuộc lòng lâu ngày, lại
nhớ đến được, còn nói gì các chú thuật được học thuộc lòng?
I
4. - Này Bà-la-môn, khi trú với tâm
bị dục tham (kāmarāga) xâm
chiếm, bị dục tham chi phối và không như thật
rõ biết sự xuất ly khỏi dục tham đã
khởi lên; trong khi ấy, người ấy không
như thật biết và thấy lợi ích của mình; trong khi ấy, không như thật biết và thấy lợi ích
của người; trong khi ấy, không
như thật biết và thấy lợi ích cả hai. Cho nên, các chú thuật được học thuộc lòng lâu ngày lại không nhớ
đến được, còn nói gì các chú thuật không được học thuộc lòng.
Ví như, này Bà-la-môn, một bát nước trộn lẫn với thuốc
nhuộm gôm lắc, hay màu đỏ tía, hay màu xanh, hay màu vàng, và ở đây một
người có mắt muốn ngắm bóng mặt của mình, không có thể như thật biết được, thấy
được. Cũng vậy, này Bà-la-môn, trong khi trú với tâm bị dục tham xâm
chiếm, bị dục tham chi phối, không như thật rõ biết sự xuất ly khỏi dục tham đã
khởi lên; trong khi ấy, người ấy không như thật biết và thấy lợi ích của mình;
trong khi ấy, không như thật biết và thấy lợi ích của người; trong khi ấy,
không như thật biết và thấy lợi ích cả hai. Cho nên, các chú thuật được học
thuộc lòng lâu ngày lại không nhớ đến được, còn nói gì các chú thuật không được
học thuộc lòng.
5. Lại nữa, này
Bà-la-môn, khi trú với tâm bị sân xâm chiếm, bị sân chi phối, không như thật
biết sự xuất ly khỏi sân đã khởi lên; trong khi ấy, người ấy không như thật biết và thấy lợi ích của mình; trong khi ấy, không
như thật biết và thấy lợi ích của người; trong khi ấy, không như thật biết và
thấy lợi ích cả hai. Cho nên, các chú thuật được học thuộc
lòng lâu ngày lại không thể nhớ đến được, còn nói gì các chú thuật không được
học thuộc lòng.
Ví như, này Bà-la-môn, một bát nước được lửa đun sôi,
sôi lên sùng sục, sôi lên cuồn cuộn. Ở
đây, một người có mắt muốn ngắm mặt của mình, không thể như thật biết và thấy
được. Cũng vậy, này Bà-la-môn, trong khi trú với tâm bị sân xâm chiếm,
bị sân chi phối, không như thật biết sự xuất ly khỏi sân đã khởi lên; trong khi
ấy, người ấy không như thật biết và thấy lợi ích của mình; trong khi ấy, không
như thật biết và thấy lợi ích của người; trong khi ấy, không như thật biết và
thấy lợi ích cả hai. Cho nên, các chú thuật được học thuộc lòng lâu ngày lại
không thể nhớ đến được, còn nói gì các chú thuật không được học thuộc lòng.
6. Lại nữa, này
Bà-la-môn, khi trú với tâm bị hôn
trầm thụy miên xâm chiếm, bị hôn trầm thụy miên chi phối, không như thật biết sự xuất ly ra khỏi hôn trầm thụy miên đã khởi
lên; trong khi ấy, người ấy không như thật biết và thấy lợi ích của mình; trong
khi ấy, không như thật biết và thấy lợi ích của người; trong khi ấy, không như
thật biết và thấy lợi ích cả hai. Cho nên, các chú thuật được học thuộc
lòng lâu ngày lại không thể nhớ đến được, còn nói gì các chú thuật không được
học thuộc lòng.
Ví như, này Bà-la-môn, một bát nước bị rong rêu che phủ.
Ở đây, một người có mắt muốn ngắm khuôn mặt của mình, không thể như thật biết
và thấy được. Cũng vậy, này Bà-la-môn, trong khi trú với tâm bị hôn trầm thụy
miên xâm chiếm, bị hôn trầm thụy miên chi phối, không như thật biết sự xuất ly
ra khỏi hôn trầm thụy miên đã khởi lên; trong khi ấy, người ấy không như thật
biết và thấy lợi ích của mình; trong khi ấy, không như thật biết và thấy lợi
ích của người; trong khi ấy, không như thật biết và thấy lợi ích cả hai. Cho
nên, các chú thuật được học thuộc lòng lâu ngày lại không thể nhớ đến được, còn
nói gì các chú thuật không được học thuộc lòng.
7. Lại nữa, này
Bà-la-môn, khi trú với tâm bị trạo
hối xâm chiếm, bị trạo
hối chi phối, không như thật biết sự
xuất ly khỏi trạo hối đã khởi lên; trong khi ấy, người ấy không như thật biết
và thấy lợi ích của mình; trong khi ấy, không như thật biết và thấy lợi ích của
người; trong khi ấy, không như thật biết và thấy lợi ích cả hai. Cho nên, các chú thuật được học thuộc lòng lâu ngày lại không thể
nhớ đến được, còn nói gì các chú thuật không được học thuộc lòng.
Ví như, này Bà-la-môn, một bát nước bị gió thổi, dao
động, chấn động, nổi sóng. Ở
đây, một người có mắt muốn ngắm khuôn mặt của mình, không thể như thật biết và
thấy được. Cũng vậy, này Bà-la-môn, khi trú với tâm bị trạo hối xâm chiếm,
bị trạo hối chi phối, không như thật biết sự xuất ly khỏi trạo hối đã khởi lên;
trong khi ấy, người ấy không như thật biết và thấy lợi ích của mình; trong khi
ấy, không như thật biết và thấy lợi ích của người; trong khi ấy, không như thật
biết và thấy lợi ích cả hai. Cho nên, các chú thuật được học thuộc lòng lâu
ngày lại không thể nhớ đến được, còn nói gì các chú thuật không được học thuộc
lòng.
8. Lại nữa, này
Bà-la-môn, trong khi trú với tâm bị nghi hoặc xâm chiếm, bị nghi hoặc chi phối,
và không như thật biết sự xuất ly khỏi nghi hoặc đã khởi lên; trong khi ấy,
người ấy không như thật biết và thấy sự lợi ích của mình; trong khi ấy, không
như thật biết và thấy sự lợi ích của người; trong khi ấy, không như thật biết
và thấy sự lợi ích cả hai. Cho nên, các chú thuật được học
thuộc lòng lâu ngày lại không thể nhớ đến được, còn nói gì các chú thuật không
được học thuộc lòng.
Ví như, này Bà-la-môn, một bát nước bị khuấy động,
khuấy đục, khuấy bùn, đặt trong bóng tối. Ở đây, một người có mắt muốn ngắm
khuôn mặt của mình, không thể như thật biết và thấy được. Cũng vậy, này Bà-la-môn, khi trú với tâm bị nghi hoặc xâm
chiếm, bị nghi hoặc chi phối, và không như thật biết sự xuất ly khỏi nghi hoặc
đã khởi lên; trong khi ấy, người ấy không như thật biết và thấy sự lợi ích của
mình; trong khi ấy, không như thật biết và thấy sự lợi ích của người; trong khi
ấy, không như thật biết và thấy sự lợi ích cả hai. Cho nên, các chú thuật được
học thuộc lòng lâu ngày lại không thể nhớ đến được, còn nói gì các chú thuật
không được học thuộc lòng.
9. Ðây là nhân, đây là duyên, này Bà-la-môn, có khi các chú thuật
được học thuộc lòng lâu ngày lại không thể nhớ đến được, còn nói gì các chú
thuật không được học thuộc lòng.
II
10. Này Bà-la-môn, khi trú với tâm không bị dục tham xâm chiếm, không bị dục tham chi phối,
lại như thật rõ biết sự xuất ly của dục tham đã khởi lên; trong khi ấy, người ấy như thật biết và thấy lợi ích của mình;
trong khi ấy, như thật biết và thấy lợi ích của người; trong khi ấy, như thật
biết và thấy lợi ích cả hai. Cho nên, các chú thuật không được học thuộc lòng
lâu ngày được nhớ đến, còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng.
Ví như, này
Bà-la-môn, một bát nước không trộn lẫn với thuốc gôm lắc, hay màu đỏ tía, hay
màu xanh, hay màu vàng. Ở đây, một người có mắt muốn ngắm bóng mặt của mình, có
thể như thật biết và thấy được. Cũng vậy, này
Bà-la-môn, khi trú với tâm không bị dục tham xâm chiếm, không bị dục tham chi
phối, lại như thật rõ biết sự xuất ly của dục tham đã khởi lên; trong khi ấy,
người ấy như thật biết và thấy lợi ích của mình; trong khi ấy, như thật biết và
thấy lợi ích của người; trong khi ấy, như thật biết và thấy lợi ích cả hai. Cho
nên, các chú thuật không được học thuộc lòng lâu ngày được nhớ đến, còn nói gì
các chú thuật đã được học thuộc lòng.
11. Lại nữa, này
Bà-la-môn, khi trú với tâm không
bị sân xâm chiếm, không bị sân chi
phối, lại như thật rõ biết sự xuất ly của sân đã khởi lên; trong khi ấy, người ấy như thật biết và thấy lợi ích của mình;
trong khi ấy, như thật biết và thấy lợi ích của người; trong khi ấy, như thật
biết và thấy lợi ích cả hai. Cho nên, các chú thuật không được học thuộc lòng
lâu ngày được nhớ đến, còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng.
Ví như, này Bà-la-môn,
một bát nước không được lửa đun sôi, không sôi lên sùng sục, không sôi lên cuồn
cuộn. Ở đây, một người có mắt muốn ngắm bóng mặt của mình, có thể như thật biết
và thấy được. Cũng vậy, này Bà-la-môn, khi trú với
tâm không bị sân xâm chiếm, không bị sân chi phối, lại như thật rõ biết sự xuất
ly của sân đã khởi lên; trong khi ấy, người ấy
như thật biết và thấy lợi ích của mình; trong khi ấy, như thật biết và thấy lợi
ích của người; trong khi ấy, như thật biết và thấy lợi ích cả hai. Cho nên, các
chú thuật không được học thuộc lòng lâu ngày được nhớ đến, còn nói gì các chú
thuật đã được học thuộc lòng.
12. Lại nữa, này
Bà-la-môn, khi trú với tâm không
bị hôn trầm thụy miên xâm chiếm, không bị hôn trầm thụy miên chi phối, lại như thật rõ biết sự xuất
ly của hôn trầm thụy miên đã khởi lên; trong khi ấy, người ấy như thật biết và thấy lợi ích của mình;
trong khi ấy, như thật biết và thấy lợi ích của người; trong khi ấy, như thật
biết và thấy lợi ích cả hai. Cho nên, các chú thuật không được học thuộc lòng
lâu ngày được nhớ đến, còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng.
Ví như, này Bà-la-môn,
một bát nước không bị rong rêu che phủ. Ở đây, một người có mắt muốn ngắm bóng
mặt của mình, có thể như thật biết và thấy được. Cũng vậy, này Bà-la-môn, trong khi trú với tâm không bị hôn trầm
thụy miên xâm chiếm, không bị hôn
trầm thụy miên chi phối, lại như
thật rõ biết sự xuất ly của hôn
trầm thụy miên đã khởi lên; trong
khi ấy, người ấy như thật biết và thấy lợi ích của mình; trong khi ấy, như thật
biết và thấy lợi ích của người; trong khi ấy, như thật biết và thấy lợi ích cả
hai. Cho nên, các chú thuật không được học thuộc lòng lâu ngày được nhớ đến,
còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng.
13. Lại nữa, này
Bà-la-môn, khi trú với tâm không
bị trạo hối xâm chiếm, không bị trạo hối chi phối, lại như thật rõ biết sự xuất
ly của trạo hối đã khởi lên; trong khi ấy,
người ấy như thật biết và thấy lợi ích của mình; trong khi ấy, như thật biết và
thấy lợi ích của người; trong khi ấy, như thật biết và thấy lợi ích cả hai. Cho
nên, các chú thuật không được học thuộc lòng lâu ngày được nhớ đến, còn nói gì
các chú thuật đã được học thuộc lòng.
Ví như, này Bà-la-môn,
một bát nước không bị gió thổi, không bị dao động, không bị chấn động, không bị
nổi sóng. Ở đây, một người có mắt muốn ngắm bóng mặt của mình, có thể như thật
biết và thấy được. Cũng vậy, này Bà-la-môn, trong khi trú
với tâm không bị trạo hối xâm chiếm, không bị trạo
hối chi phối, lại như thật rõ
biết sự xuất ly của trạo hối đã khởi lên; trong khi ấy, người ấy
như thật biết và thấy lợi ích của mình; trong khi ấy, như thật biết và thấy lợi
ích của người; trong khi ấy, như thật biết và thấy lợi ích cả hai. Cho nên, các
chú thuật không được học thuộc lòng lâu ngày được nhớ đến, còn nói gì các chú
thuật đã được học thuộc lòng.
14. Lại nữa, này
Bà-la-môn, khi trú với tâm không
bị nghi hoặc xâm chiếm, không bị nghi hoặc chi phối, lại như thật rõ biết sự xuất
ly của nghi hoặc đã khởi lên; trong khi ấy, người ấy như thật biết và thấy lợi ích của mình;
trong khi ấy, như thật biết và thấy lợi ích của người; trong khi ấy, như thật
biết và thấy lợi ích cả hai. Cho nên, các chú thuật không được học thuộc lòng
lâu ngày được nhớ đến, còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng.
Ví như, này Bà-la-môn,
một bát nước trừng tịnh, trong sáng, không bị khuấy động, đặt giữa ánh sáng. Ở
đây, một người có mắt muốn ngắm bóng mặt của mình, có thể như thật biết và thấy
được. Cũng vậy, này Bà-la-môn, trong khi trú với tâm không bị nghi
hoặc xâm chiếm, không bị nghi
hoặc chi phối, lại như thật rõ
biết sự xuất ly của nghi hoặc đã khởi lên; trong khi ấy, người ấy
như thật biết và thấy lợi ích của mình; trong khi ấy, như thật biết và thấy lợi
ích của người; trong khi ấy, như thật biết và thấy lợi ích cả hai. Cho nên, các
chú thuật không được học thuộc lòng lâu ngày được nhớ đến, còn nói gì các chú
thuật đã được học thuộc lòng.
15. Ðây là nhân, đây là
duyên, này Bà-la-môn, có khi các chú thuật không được học thuộc lòng lâu ngày
lại có thể nhớ đến được, còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng.
16. Có bảy giác chi này, này Bà-la-môn, không chướng ngại,
không triền cái, không làm uế nhiễm tâm, được
tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến chứng ngộ quả minh và giải thoát. Thế nào là bảy?
Niệm giác chi, này Bà-la-môn, không phải là chướng ngại, triền cái, không làm
uế nhiễm tâm, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến chứng ngộ quả minh và
giải thoát.
Trạch pháp giác chi không phải là chướng ngại, triền cái, không làm uế nhiễm tâm, được
tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến chứng ngộ quả minh và giải thoát.
Tinh tấn giác chi không phải là chướng ngại, triền cái, không làm uế nhiễm tâm, được
tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến chứng ngộ quả minh và giải thoát.
Hỷ giác chi không phải là chướng ngại, triền cái, không làm uế nhiễm tâm, được
tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến chứng ngộ quả minh và giải thoát.
Khinh an giác chi không phải là chướng ngại, triền cái, không làm uế nhiễm tâm, được
tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến chứng ngộ quả minh và giải thoát.
Định giác chi không phải là chướng ngại, triền cái, không làm uế nhiễm tâm, được
tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến chứng ngộ quả minh và giải thoát.
Xả giác chi không phải là chướng ngại, triền cái, không làm uế nhiễm tâm, được
tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến chứng ngộ quả minh và giải thoát.
Bảy
giác chi này,
này Bà-la-môn, không phải là chướng ngại, triền cái, không làm uế nhiễm tâm, được tu tập, được làm cho sung mãn,
đưa đến chứng ngộ quả minh và giải thoát.
17. Khi được nói vậy,
Bà-la-môn Saṅgārava bạch Thế Tôn:
- Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật
vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã
xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho những người bị lạc hướng,
đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy,
Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Bạch
Thế Tôn, con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong
Thế Tôn nhận con làm đệ tử; từ nay trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy
ngưỡng.