NAMO TASSA BHAGAVATO ARAHATO SAMMASAMBUDDHASA

Chánh Pháp (Phật Pháp)

Chánh Pháp mà đức Thế Tôn đã khéo thuyết giảng"thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu".

Chánh Pháp ấy là Bốn Thánh Đế và sự tu tập chân chánh là sự thực hành con đường Thánh Đạo Tám Ngành (còn được gọi là: Bát Chánh Đạo, hay Bát Thánh Đạo): Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định; y chỉ viễn ly, y chỉ ly tham, y chỉ đoạn diệt, y chỉ từ bỏ; là con đường duy nhất đưa đến đoạn tận Tham Sân Si, chấm dứt khổ đau, chấm dứt sanh tử luân hồi, chứng ngộ Niết Bàn.

Chúng ta hãy thường xuyên ôn tập và ghi nhớ lời dạy sau đây của đức Phật để tự nhắc mình luôn tinh tấn tu tập Thánh Đạo Tám Ngành:

  • "Vô thỉ là luân hồi này, này các Tỷ-kheo, khởi điểm không thể nêu rõ đối với sự lưu chuyển luân hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc".
  • "Này các Tỷ-kheo, do không giác ngộ, do không thông đạt Bốn Thánh Đế mà Ta và các Ông lâu ngày phải dong ruổi, lưu chuyển như thế này. Thế nào là bốn? Thánh đế về Khổ, Thánh đế về Khổ tập, Thánh đế về Khổ diệt, Thánh đế về Con Ðường đưa đến Khổ diệt".
  • "Này các Tỷ-kheo, một cố gắng cần phải làm để rõ biết: "Ðây là Khổ".
  • Một cố gắng cần phải làm để rõ biết: "Ðây là Khổ tập".
  • Một cố gắng cần phải làm để rõ biết: "Ðây là Khổ diệt".
  • Một cố gắng cần phải làm để rõ biết: "Ðây là Con đường đưa đến Khổ diệt"".
  • "Này các Tỷ-kheo, Thánh đế về Khổ, cần phải liễu tri.
  • Thánh đế về Khổ tập cần phải đoạn tận.
  • Thánh đế về Khổ diệt cần phải chứng ngộ.
  • Thánh đế về Con đường đưa đến Khổ diệt cần phải tu tập".

(trích Kinh Tương Ưng Bộ)

--------------------------------------------------------------------------------------------------------

Popular Posts

Saturday, August 22, 2015

SN 55.7 – Kinh Những Người Ở Veḷudvāra (Và một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời sao ta lại đem cột pháp ấy cho người khác?)

SN 55.7 – Kinh Những Người Ở Veḷudvāra: Veḷudvāreyyasuttaṃ

1. Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn đang đi du hành giữa Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo và đi đến một làng Bà-la-môn của dân chúng Kosala tên là Veḷudvāra.
2. Các Bà-la-môn gia chủ ở Veḷudvāra được nghe: "Sa-môn Gotama là Thích tử, đã xuất gia từ gia tộc họ Thích, đang đi du hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo và đã đến Veḷudvāra". Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Thế Tôn: "Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Với thắng trí, Ngài tự thân chứng ngộ thế giới này cùng với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người. Sau khi chứng ngộ, Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện có nghĩa, có văn. Ngài truyền dạy Phạm hạnh hoàn toàn, đầy đủ, trong sạch. Tốt lành thay, sự chiêm ngưỡng một vị A-la-hán như vậy!"
3. Rồi các Bà-la-môn gia chủ ở Veḷudvāra đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, một số đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; một số nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên; một số chấp tay vái chào Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; một số nói lên với Thế Tôn tên và dòng họ rồi ngồi xuống một bên; một số im lặng ngồi xuống một bên.
4. Ngồi một bên, các Bà-la-môn gia chủ ở Veḷudvāra bạch Thế Tôn:
- Thưa Tôn-giả Gotama, chúng tôi có ước vọng như thế này, có ước muốn như thế này, có chú tâm (adhippāya) như thế này: "Mong rằng chúng tôi được sống trong một nhà chật đầy trẻ con! Mong chúng tôi được sử dụng các hương chiên đàn từ Kāsi! Mong rằng chúng tôi được trang sức bằng vòng hoa và phấn sáp! Mong rằng chúng tôi được sử dụng vàng và bạc! Sau khi thân hoại mạng chung, mong rằng chúng tôi được sanh thiện thú, thiên giới, cõi đời này!"
Mong rằng Tôn-giả Gotama hãy thuyết pháp cho chúng tôi, những người có ước vọng như vậy, có ước muốn như vậy, có chú tâm như vậy. Hãy thuyết pháp như thế nào để chúng tôi được sống trong một nhà chật đầy trẻ con, để chúng tôi được sử dụng các hương chiên đàn từ Kāsi, để chúng tôi được trang sức bằng vòng hoa và phấn sáp, để chúng tôi được sử dụng vàng và bạc, để chúng tôi, khi thân hoại mạng chung, được sanh thiện thú, thiên giới, cõi đời này
5. - Vậy này các gia chủ, Ta sẽ thuyết cho các ông một pháp môn đưa đến lợi ích (tự lợi cho tự ngã - attūpanāyikaṃ). Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.
- Thưa vâng, Tôn-giả.
Các Bà-la-môn ở Veḷudvāra vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
- Này các gia chủ, thế nào là pháp môn đưa đến lợi ích cho tự ngã?
6. Ở đây, này các gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau:
"Ta muốn sống, không muốn chết, muốn lạc, ghét khổ.
Nếu có ai đến đoạt mạng sống của ta, một người muốn sống, không muốn chết, muốn lạc, ghét khổ, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý đối với ta.
Nhưng nếu ta đoạt mạng sống một người muốn sống, không muốn chết, muốn lạc, ghét khổ, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý đối với người ấy.
Một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời pháp ấy cũng không khả ái, không khả ý cho người khác.
Và một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời sao ta lại đem cột pháp ấy cho người khác?"
Do suy tư như vậy,
1)     vị ấy từ bỏ sát sanh,
2)     khuyến khích người khác từ bỏ sát sanh,
3)     nói lời tán thán từ bỏ sát sanh.
Như vậy, về thân hành, vị ấy được hoàn toàn thanh tịnh (kāyasamācāro tikoṭiparisuddho).
7. Lại nữa, này các gia chủ, vị Thánh đệ tử suy tư như sau:
"Nếu có ai lấy của không cho của ta, gọi là ăn trộm, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta.
Nhưng nếu ta lấy của không cho của người khác, gọi là ăn trộm, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho người ấy.
Một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời pháp ấy cũng không khả ái, không khả ý cho người khác.
Và một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời sao lại đem cột pháp ấy cho người khác?"
Do suy tư như vậy,
1)     vị ấy từ bỏ lấy của không cho,
2)     khuyến khích người khác từ bỏ lấy của không cho,
3)     nói lời tán thán từ bỏ lấy của không cho.
Như vậy, về thân hành, vị ấy được hoàn toàn thanh tịnh.
8. Lại nữa, này các gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau:
"Nếu ai có tà hạnh với vợ của ta, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta.
Nhưng nếu ta có tà hạnh với vợ của người khác, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho người ấy.
Một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời pháp này không khả ái, không khả ý cho người khác.
Và một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời sao ta lại đem cột pháp ấy cho người khác?"
Do suy tư như vậy,
1)     vị ấy tự mình từ bỏ tà hạnh trong các dục,
2)     khuyến khích người khác từ bỏ tà hạnh trong các dục,
3)     nói lời tán thán từ bỏ tà hạnh trong các dục.
Như vậy, về thân hành, vị ấy được hoàn toàn thanh tịnh.
9. Lại nữa, này các gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau:
"Nếu có ai làm tổn hại lợi ích ta với lời nói láo, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta.
Nhưng nếu ta cũng làm tổn hại lợi ích người khác với lời nói láo, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho người ấy.
Một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời pháp này không khả ái, không khả ý cho người khác.
Và một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời sao ta lại đem cột pháp ấy cho người khác?"
Do suy tư như vậy,
1)     vị ấy tự mình từ bỏ nói láo,
2)     khuyến khích người khác từ bỏ nói láo,
3)     nói lời tán thán từ bỏ nói láo.
Như vậy, về khẩu hành, vị ấy được hoàn toàn thanh tịnh.
10. Lại nữa, này các gia chủ, vị Thánh đệ tử suy tư như sau:
"Nếu có ai chia rẽ bạn bè ta bằng lời nói hai lưỡi,như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta.
Nhưng nếu ta chia rẽ bạn bè người khác bằng lời nói hai lưỡi, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho người ấy.
Một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời pháp này không khả ái, không khả ý cho người khác.
Và một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời sao ta lại đem cột pháp ấy cho người khác?"
Do suy tư như vậy,
1)     vị ấy tự mình từ bỏ nói hai lưỡi,
2)     khuyến khích người khác từ bỏ nói lời hai lưỡi,
3)     nói lời tán thán từ bỏ nói lời hai lưỡi.
Như vậy, về khẩu hành, vị ấy được hoàn toàn thanh tịnh.
11. Lại nữa, này các gia chủ, vị Thánh đệ tử suy tư như sau:
"Nếu có ai đối xử với ta bằng thô ác ngữ, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta.
Nhưng nếu ta cũng đối xử với người khác bằng thô ác ngữ, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho người ấy.
Một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời pháp này không khả ái, không khả ý cho người khác.
Và một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời sao ta lại đem cột pháp ấy cho người khác?"
Do suy tư như vậy,
1)     vị ấy tự mình từ bỏ thô ác ngữ,
2)     khuyến khích người khác từ bỏ thô ác ngữ,
3)     nói lời tán thán từ bỏ thô ác ngữ.
Như vậy, về khẩu hành, vị ấy được hoàn toàn thanh tịnh.
12. Lại nữa, này các gia chủ, vị Thánh đệ tử suy tư như sau:
"Nếu có ai đối xử với ta với lời tạp ngữ, với lời phù phiếm, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta.
Nhưng nếu ta cũng đối xử với người khác với lời tạp ngữ, với lời phù phiếm, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho người ấy.
Một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời pháp này không khả ái, không khả ý cho người khác.
Và một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời sao ta lại đem cột pháp ấy cho người khác?"
Do suy tư như vậy,
1)     vị ấy tự mình từ bỏ lời nói phù phiếm,
2)     khuyến khích người khác từ bỏ nói lời phù phiếm,
3)     tán thán từ bỏ nói lời phù phiếm.
Như vậy, về khẩu hành, vị ấy được hoàn toàn thanh tịnh.
13. Vị ấy thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với đức Phật: "Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn".
14. Vị ấy thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với Pháp: "Pháp do Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, có hiệu quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu".
15. Vị ấy thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với chúng Tăng: "Diệu hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Trực hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Ứng lý hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Chơn chánh hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Tức là bốn đôi tám chúng. Chúng đệ tử của Thế Tôn là đáng cung kính, đáng cúng dường, đáng tôn trọng, đáng được chấp tay, là phước điền vô thượng ở đời".
16. Vị ấy thành tựu các giới được bậc Thánh ái kính, không bị phá hoại, không bị đâm cắt, không bị nhiễm ô, không bị uế nhiễm, đem lại giải thoát, được người trí tán thán, không bị chấp thủ, đưa đến Thiền định.
17. Này các gia chủ, khi nào vị Thánh đệ tử thành tựu bảy pháp này và bốn lời nguyện xứ này, nếu vị ấy muốn, vị ấy có thể tuyên bố về mình: "Ta đã đoạn tận địa ngục, đoạn tận khỏi sanh vào loại bàng sanh, đoạn tận cõi ngạ quỷ, đoạn tận ác sanh, ác thú, đọa xứ. Ta là bậc Dự lưu, không có bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ".
18. Ðược nói vậy, các Bà-la-môn gia chủ ở Veḷudvāra bạch Thế Tôn:
- Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho những người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc.

Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Bạch Thế Tôn, chúng con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Thế Tôn nhận chúng con làm đệ tử; từ nay trở đi cho đến mạng chung, chúng con trọn đời quy ngưỡng.

No comments: