NAMO TASSA BHAGAVATO ARAHATO SAMMASAMBUDDHASA

Chánh Pháp (Phật Pháp)

Chánh Pháp mà đức Thế Tôn đã khéo thuyết giảng"thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu".

Chánh Pháp ấy là Bốn Thánh Đế và sự tu tập chân chánh là sự thực hành con đường Thánh Đạo Tám Ngành (còn được gọi là: Bát Chánh Đạo, hay Bát Thánh Đạo): Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định; y chỉ viễn ly, y chỉ ly tham, y chỉ đoạn diệt, y chỉ từ bỏ; là con đường duy nhất đưa đến đoạn tận Tham Sân Si, chấm dứt khổ đau, chấm dứt sanh tử luân hồi, chứng ngộ Niết Bàn.

Chúng ta hãy thường xuyên ôn tập và ghi nhớ lời dạy sau đây của đức Phật để tự nhắc mình luôn tinh tấn tu tập Thánh Đạo Tám Ngành:

  • "Vô thỉ là luân hồi này, này các Tỷ-kheo, khởi điểm không thể nêu rõ đối với sự lưu chuyển luân hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc".
  • "Này các Tỷ-kheo, do không giác ngộ, do không thông đạt Bốn Thánh Đế mà Ta và các Ông lâu ngày phải dong ruổi, lưu chuyển như thế này. Thế nào là bốn? Thánh đế về Khổ, Thánh đế về Khổ tập, Thánh đế về Khổ diệt, Thánh đế về Con Ðường đưa đến Khổ diệt".
  • "Này các Tỷ-kheo, một cố gắng cần phải làm để rõ biết: "Ðây là Khổ".
  • Một cố gắng cần phải làm để rõ biết: "Ðây là Khổ tập".
  • Một cố gắng cần phải làm để rõ biết: "Ðây là Khổ diệt".
  • Một cố gắng cần phải làm để rõ biết: "Ðây là Con đường đưa đến Khổ diệt"".
  • "Này các Tỷ-kheo, Thánh đế về Khổ, cần phải liễu tri.
  • Thánh đế về Khổ tập cần phải đoạn tận.
  • Thánh đế về Khổ diệt cần phải chứng ngộ.
  • Thánh đế về Con đường đưa đến Khổ diệt cần phải tu tập".

(trích Kinh Tương Ưng Bộ)

--------------------------------------------------------------------------------------------------------

Popular Posts

Thursday, August 20, 2015

MN 95 – Kinh Kinh Caṅkī (hộ trì chân lý, giác ngộ chân lý, chứng đạt chân lý, pháp nào được hành trì nhiều)

MN 95 – Kinh Kinh Caṅkī (Caṅkīsutta)

1. Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn du hành trong nước Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo, và đi đến một làng Bà-la-môn của dân chúng Kosala, tên là Opāsāda (hay Opasāda).
2. Thế Tôn trú tại Opāsāda, tại rừng chư Thiên (Devavana), rừng cây Sāla (Sālavana), phía Bắc làng Opāsāda. Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Caṅkī trú ở Opāsāda, một chỗ dân cư đông đúc, cây cỏ, ao nước, lúa gạo phì nhiêu, một vương địa do vua Pasenadi, vua nước Kosala cấp, một ân tứ của vua, một tịnh ấp.
3. Các Bà-la-môn gia chủ ở Opāsāda được nghe: "Sa-môn Gotama là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Sakya (Thích-ca) đang du hành ở Videha, cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị".
Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Tôn-giả Gotama: "Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.
Với thắng trí, Ngài tự thân chứng ngộ thế giới này cùng với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, các loài Trời và loài Người.
Khi đã chứng ngộ, Ngài còn tuyên thuyết điều Ngài đã chứng ngộ.
Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, văn nghĩa đầy đủ, Ngài tuyên dạy Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, trong sạch.
Tốt đẹp thay sự chiêm ngưỡng một vị A-la-hán như vậy!"
4. Rồi các Bà-la-môn gia chủ ở Opāsāda, từng đoàn, từng đoàn lũ lượt đi ra khỏi Opāsāda và đi đến ngõ phía Bắc, rừng chư Thiên, rừng cây Sāla.
5. Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Caṅkī đi lên trên lầu để nghỉ trưa. Bà-la-môn Caṅkī thấy các Bà-la-môn gia chủ ở Opāsāda từng đoàn, từng đoàn lũ lượt đi ra khỏi Opāsāda và đi đến ngõ phía Bắc, rừng chư Thiên, rừng cây Sāla. Thấy vậy, Bà-la-môn Caṅkī bèn gọi người gác cửa:
- Này người gác cửa, vì sao các Bà-la-môn gia chủ ở Opāsāda từng đoàn, từng đoàn lũ lượt đi ra khỏi Opāsāda và đi đến ngõ phía Bắc, rừng chư Thiên, rừng cây Sāla như vậy?
6. - Thưa Tôn-giả Caṅkī, có Sa-môn Gotama, dòng họ Thích-ca, xuất gia từ gia tộc Thích-ca đang du hành trong nước Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Tôn-giả Gotama:
"Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Với thắng trí, Ngài tự thân chứng ngộ thế giới này cùng với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, các loài Trời và loài Người. Khi đã chứng ngộ, Ngài còn tuyên thuyết điều Ngài đã chứng ngộ. Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, văn nghĩa đầy đủ, Ngài tuyên dạy Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, trong sạch". Nay những người ấy đi đến yết kiến Tôn-giả Gotama.
- Này người gác cửa, hãy đi đến các Bà-la-môn gia chủ ở Opāsāda, khi đến nơi, hãy nói với những Bà-la-môn gia chủ: "Bà-la-môn Caṅkī có nói: "Này các Hiền-giả, hãy chờ đợi. Bà-la-môn Caṅkī sẽ tự thân hành đến yết kiến Sa-môn Gotama"".
7. Lúc bấy giờ, có khoảng năm trăm Bà-la-môn, từ nhiều địa phương khác nhau, đến tại Opāsāda vì một vài công vụ. Những Bà-la-môn nghe: "Bà-la-môn Caṅkī sẽ đi yết kiến Sa-môn Gotama". Những Bà-la-môn ấy đến Bà-la-môn Caṅkī, khi đến xong, liền thưa với Bà-la-môn Caṅkī:
- Có phải Tôn-giả Caṅkī sẽ đến yết kiến Sa-môn Gotama?
- Này các Hiền-giả, đó là ý định của ta. Ta sẽ đến yết kiến Sa-môn Gotama.
8. - Tôn-giả Caṅkī, chớ có đến yết kiến Sa-môn Gotama. Thật không xứng đáng cho Tôn-giả Caṅkī đến yết kiến Sa-môn Gotama; trái lại, thật xứng đáng cho Sa-môn Gotama đến yết kiến Tôn-giả Caṅkī.
1)     Lại nữa, Tôn-giả Caṅkī thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ không bị một vết nhơ nào, không bị một gièm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh.
2)     Vì Tôn-giả Caṅkī thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không bị một vết nhơ nào, không bị một chỉ trích nào về vấn đề huyết thống thọ sanh. Do điểm này, thật không xứng đáng cho Tôn-giả Caṅkī đến yết kiến Sa-môn Gotama; trái lại, thật xứng đáng cho Sa-môn Gotama đến yết kiết Bà-la-môn Caṅkī.
3)     Lại nữa, Tôn-giả Caṅkī là nhà giàu có, đại phú, sung túc.
4)     Lại nữa, Tôn-giả Caṅkī là nhà phúng tụng, nhà trì chú, thông hiểu ba tập Vedā với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải và lịch sử truyền thống là thứ năm, thông hiểu ngữ pháp và văn phạm, biện tài về Thuận thế luận và Ðại nhân tướng.
5)     Tôn-giả Caṅkī đẹp trai, khả ái, làm đẹp lòng người, với màu da thù thắng, khôi ngô tuấn tú, cử chỉ trang nhã, dáng điệu cao thượng.
6)     Tôn-giả Caṅkī có giới hạnh, trưởng thành trong giới hạnh, thành tựu sự trưởng thành trong giới hạnh.
7)     Tôn-giả Caṅkī thiện ngôn, dùng lời thiện ngôn, nói lời tao nhã, ý nghĩa minh bạch, giọng nói không bập bẹ phều phào, giải thích nghĩa lý minh xác.
8)     Tôn-giả Caṅkī là bậc Tôn sư của hàng Tôn sư nhiều người, dạy ba trăm thanh niên Bà-la-môn tụng đọc chú thuật.
9)     Tôn-giả Caṅkī được vua Pasenadi xứ Kosala kính trọng, tôn sùng, chiêm ngưỡng, kính lễ, trọng vọng.
10) Tôn-giả Caṅkī được Bà-la-môn Pokkharasāti kính trọng, tôn sùng, chiêm ngưỡng, kính lễ, trọng vọng.
11) Tôn-giả Caṅkī sống ở Opāsāda, một địa phương dân chúng đông đúc, cỏ cây, ao nước phì nhiêu, lúa gạo sung túc, một vương lãnh địa, một tịnh thí địa, một ân tứ của vua Pasenadi nước Kosala.
Do điểm này, thật không xứng đáng cho Tôn-giả Caṅkī đến yết kiến Sa-môn Gotama; trái lại, thật xứng đáng cho Sa-môn Gotama đến yết kiết Tôn-giả Caṅkī.
9. Nghe nói vậy, Bà-la-môn Caṅkī nói với những vị Bà-la-môn ấy:
- Các Hiền-giả hãy nghe ta giải thích, vì sao thật xứng đáng cho chúng ta đến yết kiến Sa-môn Gotama; trái lại, thật không xứng đáng cho Sa-môn Gotama đến yết kiến chúng ta.
1)        Này các Hiền-giả, thật vậy, Sa-môn Gotama thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không bị một vết nhơ nào, không bị một gièm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh. Do điểm này thật không xứng đáng cho Sa-môn Gotama đến yết kiến chúng ta, trái lại, thật xứng đáng cho chúng ta đến yết kiến Sa-môn Gotama.
2)        Này các Hiền-giả, thật vậy, Sa-môn Gotama xuất gia, từ bỏ rất nhiều vàng bạc, bỏ cả loại đang chôn dưới đất lẫn loại trên mặt đất.
3)        Này các Hiền-giả, thật vậy, Sa-môn Gotama trong tuổi thanh niên, tóc còn đen nhánh, trong tuổi trẻ đẹp của thời niên thiếu, đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
4)        Này các Hiền-giả, thật vậy, Sa-môn Gotama, dầu song thân không đồng ý, khóc than, nước mắt thấm ướt cả mặt, vẫn cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
5)        Này các Hiền-giả, thật vậy, Sa-môn Gotama đẹp trai, khả ái, làm đẹp lòng mọi người với màu da thù thắng, khôi ngô tuấn tú, cử chỉ trang nhã, dáng điệu cao thượng.
6)        Này các Hiền-giả, thật vậy, Sa-môn Gotama có giới hạnh, gìn giữ giới hạnh của bậc Thánh, có thiện đức, đầy đủ thiện đức.
7)        Này các Hiền-giả, thật vậy, Sa-môn Gotama thiện ngôn, dùng lời thiện ngôn, nói lời tao nhã, ý nghĩa minh bạch, giọng nói không bập bẹ, phều phào, giải thích nghĩa lý minh xác.
8)        Này các Hiền-giả, thật vậy, Sa-môn Gotama là bậc Tôn sư các hàng Tôn sư của nhiều người.
9)        Này các Hiền-giả, thật vậy, Sa-môn Gotama đã diệt trừ tham dục, đã diệt được mọi xao động của tâm.
10)   Này các Hiền-giả, thật vậy, Sa-môn Gotama chủ trương về nghiệp, chủ trương về hành động, đặt trọng tâm vào chí thiện khi thuyết pháp với chúng Bà-la-môn.
11)   Này các Hiền-giả, thật vậy, Sa-môn Gotama xuất gia từ chủng tộc cao quý, từ dòng họ Sát-đế-lỵ thanh tịnh.
12)    Này các Hiền-giả, thật vậy, Sa-môn Gotama xuất gia từ chủng tộc khá giả, đại phú, tài sản sung mãn.
13)   Này các Hiền-giả, thật vậy, dân chúng băng ngàn vượt biển băng qua nhiều địa phương, băng qua nhiều quốc độ, đến hỏi đạo Sa-môn Gotama.
14)   Này các Hiền-giả, thật vậy, có hàng ngàn Thiên nhân đến quy y Sa-môn Gotama.
15)   Này các Hiền-giả, thật vậy, tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Sa-môn Gotama: "Ngài là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn".
16)   Này các Hiền-giả, thật vậy, Sa-môn Gotama có đầy đủ ba mươi hai tướng tốt của bậc Ðại nhân.
17)   Này các Hiền-giả, thật vậy, vua Seniya Bimbisāra nước Māgadha, cùng với vương tử, cung phi, thị tùng đều quy y Sa-môn Gotama.
18)   Này các Hiền-giả, thật vậy, vua Pasenadi nước Kosala, cùng với nương tử, cung phi, thị tùng đều quy y Sa-môn Gotama.
19)   Này các Hiền-giả, thật vậy, Bà-la-môn Pokkharasāti cùng với các con, vợ, thị giả đều quy y Sa-môn Gotama.
20)   Này các Hiền-giả, thật vậy, Sa-môn Gotama đã đến Opāsāda, nay đang ở tại Opāsāda về phía Bắc Opāsāda, trong rừng chư Thiên, rừng cây Sāla.
21)   Những Sa-môn, Bà-la-môn nào đến ruộng làng chúng ta đều là khách của chúng ta.
Ðối với khách, chúng ta phải kính trọng, tôn sùng, chiêm ngưỡng, kính lễ, trọng vọng. Này các Hiền-giả, nay Sa-môn Gotama đã đến Opāsāda, hiện ở tại Opāsāda, về phía Bắc Opāsāda, trong rừng chư Thiên, rừng cây Sāla. Như vậy Sa-môn Gotama là khách của chúng ta.
Và đã là khách, chúng ta phải kính trọng, tôn sùng, chiêm ngưỡng, kính lễ, trọng vọng.
Do điểm này, thật không xứng đáng cho Tôn-giả Gotama đến yết kiến chúng ta, trái lại, thật xứng đáng cho chúng ta đến yết kiến Tôn-giả Gotama.
Này các Hiền-giả, đó là những ưu điểm mà ta được biết về Tôn-giả Gotama. Tôn-giả Gotama không phải có chừng ấy ưu điểm mà thôi. Tôn-giả Gotama có đến vô lượng ưu điểm.
Này các Hiền-giả, chỉ với một ưu điểm thôi, thật không xứng đáng cho Tôn-giả Gotama đến yết kiến chúng ta; thật xứng đáng cho chúng ta đến yết kiến Tôn-giả Gotama. Vậy tất cả chúng ta hãy đi đến yết kiến Tôn-giả Gotama.
10. Rồi Bà-la-môn Caṅkī, cùng với đại chúng Bà-la-môn đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những người chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên.
11. Lúc bấy giờ, Thế Tôn đang ngồi và nói lên với những Bà-la-môn trưởng thượng những lời thân hữu về vấn đề này, vấn đề khác.
Khi ấy có thanh niên Bà-la-môn tên Kāpaṭhika (hay Kāpaṭika, Kāpadika) trẻ tuổi, đầu cạo trọc, mới có mười sáu tuổi, từ khi sanh, thông hiểu ba tập Vedā với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải và lịch sử truyền thống là thứ năm, thông hiểu ngữ pháp và văn phạm, biệt tài về Thuận thế luận và Ðại nhân tướng, thanh niên này đang ngồi giữa hội chúng ấy.
Thanh niên này thỉnh thoảng cắt đứt cuộc đàm luận giữa Thế Tôn và các vị Bà-la-môn trưởng thượng. Rồi Thế Tôn khiển trách thanh niên Bà-la-môn Kāpaṭhika:
- Hiền-giả Bhāradvāja, chớ có cắt ngang cuộc đàm luận của các Bà-la-môn trưởng thượng. Hiền-giả Bhāradvāja hãy chờ cho đến khi câu chuyện chấm dứt.
Khi nghe nói vậy, Bà-la-môn Caṅkī bạch Thế Tôn:
- Tôn-giả Gotama, chớ có khiển trách thanh niên Bà-la-môn Kāpaṭhika.
Thanh niên Bà-la-môn Kāpaṭhika là thiện nam tử.
Thanh niên Bà-la-môn Kapathipa là bậc đa văn.
Thanh niên Bà-la-môn Kāpaṭhika phát ngôn thiện xảo.
Và thanh niên Bà-la-môn Kāpaṭhika là bậc có trí. Và thanh niên Bà-la-môn Kāpaṭhika có thể đàm luận với Tôn-giả Gotama trong vấn đề này.
12. Thế Tôn nghĩ như sau: "Thật sự thanh niên Bà-la-môn Kāpaṭhika này đã thông hiểu ba tập Vedā, và các Bà-la-môn tôn trọng người này".
Và thanh niên Bà-la-môn Kāpaṭhika nghĩ như sau: "Khi nào Sa-môn Gotama lấy mắt nhìn con mắt ta, ta sẽ hỏi Sa-môn Gotama".
Rồi Thế Tôn với tâm tư của mình biết được tâm tư của thanh niên Bà-la-môn Kāpaṭhika liền lấy mắt nhìn thanh niên Bà-la-môn Kāpaṭhika. Thanh niên Bà-la-môn Kāpaṭhika suy nghĩ: "Sa-môn Gotama chăm chú nhìn ta, vậy ta hãy hỏi Sa-môn Gotama một câu hỏi". Rồi thanh niên Bà-la-môn Kāpaṭhika bạch Thế Tôn:
- Thưa Tôn-giả Gotama, câu chú thuật của các cổ Bà-la-môn y cứ tiếng đồn, truyền thống và Thánh tạng. Và ở đây, các vị Bà-la-môn chắc chắn đi đến kết luận: "Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm". Ở đây, Tôn-giả Gotama đã nói gì?
13. - Nhưng này Bhāradvāja, có một Bà-la-môn nào giữa các vị Bà-la-môn đã nói như sau: "Tôi biết việc này, tôi thấy việc này. Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm"?
- Thưa không, Tôn-giả Gotama.
- Nhưng này Bhāradvāja, có một vị Tôn sư nào của các vị Bà-la-môn, cho đến vị Tôn sư của các vị Tôn sư trở lui cho đến bảy đời, các vị Ðại Tôn sư đã nói như sau: "Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm"?
- Thưa không, Tôn-giả Gotama.
- Nhưng này Bhāradvāja, thuở xưa những vị ẩn sĩ giữa các Bà-la-môn, những tác giả các chú thuật, những nhà tụng tán các chú thuật, đã hát, đã nói lên, đã sưu tầm những Thánh cú mà nay những Bà-la-môn hiện tại cũng hát lên, nói lên, đọc lên giống như các vị trước đã làm. Như là Aṭṭhaka, Vāmaka, Vāmadeva, Vessāmitta, Yamataggi, Aṅgīrasa, Bhāradvāja, Vāseṭṭha, Kassapa, Bhagu, những vị ấy đã nói như sau: "Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm"?
- Thưa không, Tôn-giả Gotama.
- Như vậy này Bhāradvāja, không có một Bà-la-môn nào nói như vậy với một Bà-la-môn: "Tôi biết việc này, tôi thấy việc này. Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm".
Không có một vị Tôn sư nào của các vị Bà-la-môn, một vị Ðại Tôn sư, cho đến bảy đời, vị Ðại Tôn sư đã nói như sau: "Tôi biết việc này, tôi thấy việc này. Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm".
Thuở xưa những vị ẩn sĩ, giữa các Bà-la-môn, những tác giả các chú thuật, những nhà tụng tán các chú thuật, đã hát, đã nói lên, đã sưu tầm những Thánh cú và nay, những Bà-la-môn hiện tại cũng đã hát lên, nói lên giống như các vị trước đã làm. Như là Aṭṭhaka, Vāmaka, Vāmadeva, Vessāmitta, Yamataggi, Aṅgīrasa, Bhāradvāja, Vāseṭṭha, Kassapa, Bhagu, những vị ấy không có nói như sau: "Chúng tôi biết việc này, chúng tôi thấy việc này. Chỉ có đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm".
Ví như này, Bhāradvāja, một chuỗi người mù ôm lưng nhau, người trước không thấy, người giữa cũng không thấy, người cuối cùng cũng không thấy; cũng vậy, này Bhāradvāja, Ta nghĩ rằng, lời nói của các Bà-la-môn cũng giống như chuỗi người mù, người trước không thấy, người giữa cũng không thấy, người cuối cùng cũng không thấy. Này Bhāradvāja, ông nghĩ thế nào? Sự kiện là như vậy, có phải lòng tin của các vị Bà-la-môn trở thành không có căn cứ?
14. - Thưa Tôn-giả Gotama, các Bà-la-môn không phải chỉ dựa trên lòng tin, các Bà-la-môn ở đây còn dựa trên điều nghe (tùy văn, truyền thuyết: anussava).
- Trước hết, này Bhāradvāja, ông đi đến lòng tin, nay ông nói đến tùy văn.
Này Bhāradvāja, năm pháp này có hai quả báo ngay trong hiện tại. Thế nào là năm? Tín, tùy hỷ, tùy văn, cân nhắc suy tư các lý do và chấp nhận quan điểm. Này Bhāradvāja, năm pháp này có hai quả báo ngay trong hiện tại.
Tuy vậy, này Bhāradvāja,
1)     có điều được khéo tin tưởng, có thể là trống không, trống rỗng, hư vọng;
2)     trái lại, có điều không được khéo tin tưởng, có thể là thật, là chân, không thay đổi.
Lại nữa này Bhāradvāja,
1)     có điều được khéo tùy hỷ, có thể là trống không, trống rỗng, hư vọng;
2)     trái lại, có điều không được khéo tùy hỷ, có thể là thật, là chân, không thay đổi.
Lại nữa này Bhāradvāja,
1)     có điều được khéo tùy văn, có thể là trống không, trống rỗng, hư vọng;
2)     trái lại, có điều không được khéo tùy văn, có thể là thật, là chân, không thay đổi.
Lại nữa này Bhāradvāja,
1)     có điều được khéo cân nhắc suy tư, có thể là trống không, trống rỗng, hư vọng;
2)     trái lại, có điều không được khéo tin tưởng, có thể là thật, là chân, không thay đổi.
Lại nữa này Bhāradvāja,
1)     có điều được khéo chấp nhận, có thể là trống không, trống rỗng, hư vọng.
2)     Trái lại, có điều không được khéo chấp nhận, có thể là thật, chân, không thay đổi.
Hộ trì chân lý, này Bhāradvāja không đủ để một người có trí đi đến kết luận một chiều là: "Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm".
15. - Nhưng thưa Tôn-giả Gotama, cho đến mức độ nào là hộ trì chân lý? Cho đến mức độ nào, chân lý được hộ trì? Chúng con hỏi Tôn-giả Gotama về hộ trì chân lý.
- Này Bhāradvāja, nếu có người có lòng tin và nói: "Ðây là lòng tin của tôi", người ấy hộ trì chân lý, nhưng người ấy không đi đến kết luận một chiều: "Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm".
Cho đến như vậy, này Bhāradvāja, là sự hộ trì chân lý. Cho đến như vậy, chân lý được hộ trì. Và cho đến như vậy, chúng tôi chủ trương hộ trì chân lý.
Nhưng ở đây, chưa phải là giác ngộ chân lý.
Này Bhāradvāja, nếu có người có lòng tùy hỷ và nói: "Ðây là lòng tùy hỷ của tôi", người ấy hộ trì chân lý, nhưng người ấy không đi đến kết luận một chiều: "Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm". Cho đến như vậy, này Bhāradvāja, là sự hộ trì chân lý. Cho đến như vậy, chân lý được hộ trì. Và cho đến như vậy, chúng tôi chủ trương hộ trì chân lý. Nhưng ở đây, chưa phải là giác ngộ chân lý.
Này Bhāradvāja, nếu có người có lòng tùy văn và nói: "Ðây là lòng tùy văn của tôi", người ấy hộ trì chân lý, nhưng người ấy không đi đến kết luận một chiều: "Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm". Cho đến như vậy, này Bhāradvāja, là sự hộ trì chân lý. Cho đến như vậy, chân lý được hộ trì. Và cho đến như vậy, chúng tôi chủ trương hộ trì chân lý. Nhưng ở đây, chưa phải là giác ngộ chân lý.
Này Bhāradvāja, nếu có người có sự cân nhắc suy tư các lý do và nói: "Ðây là sự cân nhắc suy tư các lý do của tôi", người ấy hộ trì chân lý, nhưng người ấy không đi đến kết luận một chiều: "Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm". Cho đến như vậy, này Bhāradvāja, là sự hộ trì chân lý. Cho đến như vậy, chân lý được hộ trì. Và cho đến như vậy, chúng tôi chủ trương hộ trì chân lý. Nhưng ở đây, chưa phải là giác ngộ chân lý.
Này Bhāradvāja, nếu có người chấp nhận một quan điểm và nói: "Ðây là sự chấp nhận quan điểm của tôi", người ấy hộ trì chân lý. Nhưng người ấy không đi đến kết luận một chiều: "Chỉ đây là sự thật, ngoài ra là sai lầm". Cho đến như vậy, này Bhāradvāja, là hộ trì chân lý. Cho đến như vậy, này Bhāradvāja, chúng tôi chủ trương hộ trì và cho đến như vậy, này Bhāradvāja, chúng tôi chủ trương hộ trì chân lý. Nhưng ở đây chưa phải sự giác ngộ chân lý.
16. - Cho đến như vậy, thưa Tôn-giả Gotama, là hộ trì chân lý. Cho đến như vậy, thưa Tôn-giả Gotama, chân lý được hộ trì. Cho đến như vậy, thưa Tôn-giả Gotama, chúng con nhìn thấy hộ trì chân lý.
Nhưng thưa Tôn-giả Gotama, cho đến mức độ nào là giác ngộ chân lý? Cho đến mức độ nào chân lý được giác ngộ? Chúng con hỏi Tôn-giả Gotama về giác ngộ chân lý.
17. - Ở đây, này Bhāradvāja, Tỷ-kheo sống gần một làng hay một thị trấn.
Một gia chủ hay con trai một gia chủ đi đến vị ấy và tìm hiểu vị ấy trong ba pháp, tức là tham pháp, sân pháp, si pháp.
Người này nghĩ rằng: "Không hiểu vị Tôn-giả ấy có tham ái hay không, do những tham ái này, tâm vị ấy bị chi phối đến nỗi
1)     dầu không biết vẫn nói: "Tôi biết",
2)     dầu không thấy vẫn nói: "Tôi thấy",
3)     hay xui khiến người khác có những hành động khiến người ấy không được hạnh phúc, phải đau khổ lâu dài".
Trong khi xem xét vị ấy, người này biết như sau: "Vị Tôn-giả ấy không có những tham pháp, do những tham pháp này tâm vị ấy bị chi phối đến nỗi dầu không biết vẫn nói: "Tôi biết", dầu không thấy vẫn nói: "Tôi thấy", hay xui khiến người khác có những hành động khiến người ấy không được hạnh phúc, phải đau khổ lâu dài.
Thân hành của vị ấy là như vậy, khẩu hành là như vậy, là hành động của một người không có lòng tham.
Còn Tôn-giả ấy thuyết pháp, pháp ấy thâm sâu, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, thù thắng, vượt ngoài luận lý suông, tế nhị, được người trí chấp nhận, pháp ấy không thể do một người có lòng tham khéo giảng".
18. Sau khi xem xét vị ấy và thấy vị ấy trong sạch, không có những tham pháp, người kia lại xem xét thêm vị ấy về các sân pháp: "Không hiểu vị Tôn-giả ấy có sân pháp hay không, do những sân pháp này, tâm vị ấy bị chi phối đến nỗi dầu không biết vẫn nói: "Tôi biết", dầu không thấy vẫn nói: "Tôi thấy", hay xui khiến người khác có những hành động khiến người ấy không được hạnh phúc, phải đau khổ lâu dài". Trong khi xem xét vị ấy, người này biết như sau: "Tôn-giả ấy không có những sân pháp, do những sân pháp này, tâm vị ấy bị chi phối đến nỗi dầu không biết vẫn nói: "Tôi biết", dầu không thấy vẫn nói: "Tôi thấy", hay xui khiến người khác có những hành động, khiến người ấy không được hạnh phúc, phải đau khổ lâu dài. Thân hành của vị ấy là như vậy, khẩu hành là như vậy, là hành động của một người không có lòng sân. Còn Tôn-giả ấy thuyết pháp, pháp ấy thâm sâu, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, thù thắng, vượt ngoài luận lý suông, tế nhị, được người trí chấp nhận, pháp ấy không thể do một người có lòng sân khéo giảng".
19. Sau khi xem xét vị ấy và thấy vị ấy trong sạch, không có những sân pháp, người kia lại xem xét thêm vị ấy về các si pháp: "Không hiểu Tôn-giả ấy có si pháp hay không, do những si pháp này, tâm của vị ấy bị chi phối đến nỗi dầu không biết, vẫn nói: "Tôi biết", dầu không thấy vẫn nói: "Tôi thấy", hay xui khiến người khác có hành động khiến người ấy không được hạnh phúc, phải đau khổ lâu dài". Trong khi xem xét vị ấy, người này biết như sau: "Tôn-giả ấy không có những si pháp, do những si pháp này, tâm vị ấy bị chi phối đến nỗi dầu không biết, vẫn nói: "Tôi biết", dầu không thấy, vẫn nói: "Tôi thấy", hay xui khiến người khác có những hành động khiến người ấy không được hạnh phúc, phải đau khổ lâu dài. Thân hành của vị ấy là như vậy, khẩu hành là như vậy, là hành động của một người không có lòng si. Còn Tôn-giả ấy thuyết pháp, pháp ấy thâm sâu, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, thù thắng, vượt ngoài luận lý suông, tế nhị, được người trí chấp nhận, pháp ấy không thể do một người có lòng si khéo giảng".
20. Sau khi xem xét vị ấy và thấy vị ấy trong sạch, không có những si pháp,
1)        người này sanh lòng tin đối với vị ấy,
2)        với lòng tin sanh, người này đến gần;
3)        khi đến gần liền thân cận, giao thiệp;
4)        do thân cận giao thiệp, nên lóng tai;
5)        lóng tai, người ấy nghe pháp;
6)        sau khi nghe, liền thọ trì pháp, rồi tìm hiểu ý nghĩa các pháp được thọ trì;
7)        trong khi tìm hiểu ý nghĩa, các pháp được hoan hỷ chấp nhận;
8)        khi các pháp được hoan hỷ chấp nhận, ước muốn sanh;
9)        khi ước muốn sanh, liền cố gắng;
10)   sau khi cố gắng, liền cân nhắc;
11)   sau khi cân nhắc, người ấy tinh cần.
12)   Trong khi tinh cần, người ấy tự thân chứng ngộ tối thượng chân lý,
13)   và khi thể nhập chân lý ấy với trí tuệ, người ấy thấy.
Cho đến mức độ này, này Bhāradvāja là sự giác ngộ chân lý, cho đến mức độ này, chân lý được giác ngộ, và cho đến mức độ này, chúng tôi chủ trương sự giác ngộ chân lý. Nhưng như vậy chưa phải là chứng đạt chân lý.
21. - Cho đến như vậy, thưa Tôn-giả Gotama, là giác ngộ chân lý, cho đến như vậy, chân lý được giác ngộ, và cho đến như vậy chúng con thấy giác ngộ chân lý.
Nhưng thưa Tôn-giả Gotama, cho đến mức độ nào là chứng đạt được chân lý, cho đến mức độ nào chân lý được chứng đạt? Chúng con hỏi Tôn-giả Gotama về sự chứng đạt chân lý.
- Này Bhāradvāja, chính nhờ luyện tập, tu tập và hành tập nhiều lần, chân lý mới được chứng đạt. Cho đến như vậy, này Bhāradvāja, là chứng đạt chân lý, cho đến như vậy, chân lý được chứng đạt, cho đến như vậy, chúng tôi chủ trương sự chứng đạt chân lý.
22. - Cho đến như vậy, thưa Tôn-giả Gotama, là chứng đạt chân lý, cho đến như vậy chân lý được chứng đạt, và cho đến như vậy, chúng con thấy chứng đạt chân lý.
Nhưng trong sự chứng đạt chân lý, thưa Tôn-giả Gotama, pháp nào được hành trì nhiều? Chúng con hỏi Tôn-giả Gotama, trong sự chứng đạt chân lý, pháp nào được hành trì nhiều.
- Trong sự chứng đạt chân lý, này Bhāradvāja, tinh cần được hành trì nhiều.
Nếu không tinh cần theo đuổi chân lý thì không thể chứng đạt chân lý.
Nhưng nếu tinh cần thì chứng đạt được chân lý.
Do vậy, trong sự chứng đạt chân lý, tinh cần được hành trì nhiều.
23. - Trong sự tinh cần, thưa Tôn-giả Gotama, pháp nào được hành trì nhiều? Chúng con hỏi Tôn-giả Gotama, trong sự tinh cần, pháp nào được hành trì nhiều.
- Trong sự tinh cần, này Bhāradvāja, sự cân nhắc được hành trì nhiều.
Nếu không cân nhắc thì không thể tinh cần theo đuổi chân lý.
 Nếu có cân nhắc sẽ được tinh cần; do vậy, trong sự tinh cần, cân nhắc được hành trì nhiều.
24. - Trong sự cân nhắc, thưa Tôn-giả Gotama, pháp nào được hành trì nhiều? Chúng con hỏi Tôn-giả Gotama, trong sự cân nhắc, pháp nào được hành trì nhiều.
- Trong sự cân nhắc, này Bhāradvāja, cố gắng được hành trì nhiều.
Nếu không cố gắng thì không thể cân nhắc.
Nhưng nếu có cố gắng thì có cân nhắc; do vậy trong sự cân nhắc, thì cố gắng được hành trì nhiều.
25. - Trong sự cố gắng, Tôn-giả Gotama, pháp nào được hành trì nhiều? Chúng con hỏi Tôn-giả Gotama, trong sự cố gắng, pháp nào được hành trì nhiều.
- Trong sự cố gắng, này Bhāradvāja, ước muốn được hành trì nhiều.
Nếu ước muốn đối với chân lý ấy không khởi lên thì không có cố gắng.
Vì ước muốn có khởi lên nên có cố gắng, do vậy, trong sự cố gắng, ước muốn được hành trì nhiều.
26. - Trong ước muốn, thưa Tôn-giả Gotama, pháp nào được hành trì nhiều? Chúng con muốn hỏi Tôn-giả Gotama, trong ước muốn, pháp nào được hành trì nhiều.
- Trong ước muốn, này Bhāradvāja, hoan hỷ chấp nhận pháp được hành trì nhiều.
Nếu không hoan hỷ chấp nhận pháp thì ước muốn không khởi lên.
Vì có hoan hỷ chấp nhận pháp nên ước muốn khởi lên; do vậy, trong ước muốn, hoan hỷ chấp nhận pháp được hành trì nhiều.
27. - Nhưng trong sự hoan hỷ chấp nhận pháp, thưa Tôn-giả Gotama, pháp nào được hành trì nhiều? Chúng con hỏi Tôn-giả Gotama, trong sự hoan hỷ chấp nhận pháp, pháp nào được hành trì nhiều.
- Trong sự hoan hỷ chấp nhận pháp, này Bhāradvāja, tìm hiểu ý nghĩa được hành trì nhiều.
Nếu không tìm hiểu ý nghĩa thì không hoan hỷ chấp nhận pháp.
Và vì có tìm hiểu ý nghĩa nên có sự chấp nhận pháp; do vậy, trong sự hoan hỷ chấp nhận pháp, tìm hiểu ý nghĩa được hành trì nhiều.
28. - Nhưng trong sự tìm hiểu ý nghĩa, thưa Tôn-giả Gotama, pháp nào được hành trì nhiều? Chúng con hỏi Tôn-giả Gotama, trong sự tìm hiểu ý nghĩa, pháp nào được hành trì nhiều.
- Trong sự tìm hiểu ý nghĩa, này Bhāradvāja, thọ trì pháp được hành trì nhiều.
Nếu không có thọ trì pháp thì không tìm hiểu ý nghĩa.
Và vì có thọ trì pháp, nên có tìm hiểu ý nghĩa; do vậy, trong sự tìm hiểu ý nghĩa, thọ trì pháp được hành trì nhiều.
29. - Trong sự thọ trì pháp, thưa Tôn-giả Gotama, pháp nào được hành trì nhiều? Trong sự thọ trì pháp, chúng con hỏi Tôn-giả Gotama, pháp nào được hành trì nhiều.
- Trong sự thọ trì pháp, này Bhāradvāja, nghe pháp được hành trì nhiều.
Nếu không nghe pháp thì không có thọ trì pháp.
Và do có nghe pháp nên có thọ trì pháp; do vậy, trong sự thọ trì pháp, nghe pháp được hành trì nhiều.
30. - Trong sự nghe pháp, thưa Tôn-giả Gotama, pháp nào được hành trì nhiều? Chúng con hỏi Tôn-giả Gotama, trong sự nghe pháp, pháp nào được hành trì nhiều.
- Trong sự nghe pháp, này Bhāradvāja, lóng tai được hành trì nhiều.
Nếu không có lóng tai thì không có nghe pháp.
Và vì có lóng tai nên có nghe pháp; do vậy, trong sự nghe pháp, lóng tai được hành trì nhiều.
31. - Trong sự lóng tai, thưa Tôn-giả Gotama, pháp nào được hành trì nhiều? Chúng con hỏi Tôn-giả Gotama, trong sự lóng tai, pháp nào được hành trì nhiều.
- Trong sự lóng tai, này Bhāradvāja, thân cận giao thiệp được hành trì nhiều.
Nếu không có thân cận giao thiệp thì không có lóng tai.
Vì có thân cận giao thiệp nên có lóng tai; do vậy, trong sự lóng tai, thân cận giao thiệp được hành trì nhiều.
32. - Trong sự thân cận giao thiệp, thưa Tôn-giả Gotama, pháp nào được hành trì nhiều? Chúng con hỏi Tôn-giả Gotama, trong sự thân cận giao thiệp, pháp nào được hành trì nhiều.
- Trong sự thân cận giao thiệp, này Bhāradvāja, đi đến gần được hành trì nhiều.
Nếu không đi đến gần thì không có thân cận giao thiệp.
Và vì có đi đến gần nên có thân cận giao thiệp; do vậy, trong sự thân cận giao thiệp, đi đến gần được hành trì nhiều.
33. - Trong sự đi đến gần, thưa Tôn-giả Gotama, pháp nào được hành trì nhiều? Chúng con hỏi Tôn-giả Gotama, trong sự đi đến gần, pháp nào được hành trì nhiều.
- Trong sự đi đến gần, này Bhāradvāja, lòng tin được hành trì nhiều.
Nếu lòng tin không sanh thì không đi đến gần.
Và vì lòng tin sanh, nên có đi đến gần; do vậy, trong sự đi đến gần, lòng tin được hành trì nhiều.
34. - Chúng con đã hỏi Tôn-giả Gotama về hộ trì chân lý. Tôn-giả Gotama đã trả lời về hộ trì chân lý. Chúng con tùy hỷ và chấp nhận; và do vậy, chúng con hoan hỷ.
Chúng con đã hỏi Tôn-giả Gotama về giác ngộ chân lý. Tôn-giả Gotama đã trả lời về giác ngộ chân lý. Chúng con đã tùy hỷ và chấp nhận; do vậy, chúng con hoan hỷ.
Chúng con đã hỏi Tôn-giả Gotama về chứng đạt chân lý. Tôn-giả Gotama đã trả lời về chứng đạt chân lý. Chúng con tùy hỷ và chấp nhận; do vậy, chúng con hoan hỷ.
Trong sự chứng đạt chân lý, chúng con hỏi Tôn-giả Gotama về pháp nào được hành trì nhiều. Trong sự chứng đạt chân lý, Tôn-giả Gotama đã trả lời pháp nào được hành trì nhiều. Chúng con tùy hỷ và chấp nhận; do vậy, chúng con hoan hỷ.
Chúng con đã hỏi Tôn-giả Gotama về bất cứ điều gì, Tôn-giả Gotama đã trả lời các điều ấy. Chúng con tùy hỷ và chấp nhận; do vậy, chúng con hoan hỷ.
Thưa Tôn-giả Gotama, xưa kia chúng con biết (sự phân biệt) như sau: "Và ai là những Sa-môn trọc đầu, tiện nô, hắc nô, sanh từ gót chân của Phạm thiên, và ai là những người hiểu biết Chánh Pháp".
Thật sự Tôn-giả Gotama đã làm sống dậy nơi con `lòng ái kính Sa-môn đối với các Sa-môn, lòng tin kính Sa-môn đối với các Sa-môn.

35. Thật vi diệu thay, Tôn-giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn-giả Gotama! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc; cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn-giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo. Mong Tôn-giả Gotama nhận con làm đệ tử, từ nay cho đến mạng chung, con xin trọn đời quy ngưỡng.

No comments: