Ðại
Kinh Sư Tử Hống (Mahāsīhanādasutta) – Kinh
Trung Bộ số 12
---------Trích
đoạn Năm sanh thú --------
(Năm sanh thú và Niết-bàn)
35. Này Sāriputta, có năm loại sanh thú này. Thế nào là năm? Ðịa ngục,
bàng sanh, ngạ quỷ, loài Người, chư Thiên.
36. (1) Này Sāriputta, Ta tuệ tri địa ngục, con đường đưa đến địa
ngục và hành lộ đưa đến địa ngục. Tùy theo hạnh nghiệp, sau khi thân hoại
mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục, sự việc này ta cũng
tuệ tri.
(2) Và này Sāriputta, Ta tuệ tri bàng sanh, con đường đưa đến
bàng sanh và hành lộ đưa đến bàng sanh. Tùy theo hạnh nghiệp, sau khi thân hoại
mạng chung, phải sanh vào bàng sanh, sự việc này Ta cũng tuệ tri.
(3) Và này Sāriputta, Ta tuệ tri ngạ quỷ, con đường đưa đến ngạ
quỷ và hành lộ đưa đến ngạ quỷ. Tùy theo hành nghiệp, sau khi thân hoại mạng
chung, phải sanh vào ngạ quỷ, sự việc này Ta cũng tuệ tri.
(4) Và này Sāriputta, Ta cũng tuệ tri loài Người, con đường đưa
đến thế giới loài Người và hành lộ đưa đến thế giới loài Người. Tùy theo hành nghiệp, sau
khi thân hoại mạng chung, sanh vào loài Người, sự việc này Ta cũng tuệ tri.
(5) Và này Sāriputta, Ta cũng tuệ tri chư Thiên, con đường đưa
đến Thiên giới và hành lộ đưa đến Thiên giới. Tùy theo hành nghiệp, sau khi thân hoại mạng chung, sanh
vào thiện thú, Thiên giới, thế giới này, sự việc này Ta cũng tuệ tri.
Và này Sāriputta, Ta cũng tuệ tri Niết-bàn, con đường đưa đến Niết-bàn và hành
lộ đưa đến Niết-bàn.
Tùy theo hành nghiệp, do đoạn trừ các lậu hoặc, sau khi tự mình
với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại vô lậu tâm
giải thoát, tuệ giải thoát, sự việc này, Ta cũng tuệ tri.
37. (1) Này Sāriputta, ở
đây, với tâm của Ta, Ta tuệ tri tâm của một số người: “Do hành nghiệp của người này như vậy, cử
chỉ như vậy, bước vào đạo lộ như vậy, sau khi thân hoại mạng chung sẽ sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục
như vậy”. Sau
một thời gian, với thiên nhãn thanh tịnh, siêu nhân, Ta thấy người ấy, sau khi
thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục, phải cảm thọ
những cảm giác cực khổ, thống khổ, khốc liệt.
Này
Sāriputta, cũng như có một hố than
sâu hơn thân người, đầy vun than hừng, không có lửa ngọn, không có khói, và một
người đi đến, bị nóng bức áp đảo, bị nóng bức hành hạ, mệt mỏi khô cổ, đắng
họng, khát nước, và đi thẳng đến hố than ấy chỉ bằng một con đường. Một người
có mắt thấy người ấy, có thể nói: "Hành
nghiệp của người này như vậy, cử chỉ như vậy, bước vào đạo lộ như vậy, sẽ đi
đến hố than kia". Sau một thời gian, người ấy sẽ thấy người kia rơi
vào hố than ấy và phải cảm thọ những cảm giác cực khổ, thống khổ, khốc liệt.
Này Sāriputta, cũng vậy, ở
đây với tâm của Ta, Ta tuệ tri tâm của một số người: "Hành nghiệp của người này như vậy, cử
chỉ như vậy, bước vào đạo lộ như vậy, sau khi thân hoại mạng chung sẽ sanh vào cõi
dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục như vậy". Sau một thời gian, với thiên nhãn thanh tịnh
siêu nhân, Ta thấy người ấy sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác
thú, đọa xứ, địa ngục, phải cảm thọ những cảm giác cực khổ, thống khổ, khốc
liệt.
38. (2) Này Sāriputta, ở
đây với tâm của Ta, Ta tuệ tri tâm của một số người: "Hành nghiệp của người này như vậy, cử
chỉ như vậy, bước vào đạo lộ như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh vào
bàng sanh". Sau một thời gian, với thiên nhãn thanh tịnh
siêu nhân, Ta thấy kẻ ấy sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào bàng sanh, phải
cảm thọ những cảm giác cực khổ, thống khổ, khốc liệt.
Này
Sāriputta, cũng như có một hố phân,
sâu hơn thân người, đầy những phẩn uế, và một người đi đến, bị nóng bức áp đảo,
bị nóng bức hành hạ, mệt mỏi, khô cổ, đắng họng, khát nước và đi thẳng đến hố
phân ấy chỉ bằng một con đường. Một người có mắt thấy người ấy có thể nói: "Hành nghiệp của người này như vậy, cử
chỉ như vậy và bước vào đạo lộ như vậy, sẽ đi đến hố phân ấy". Sau một
thời gian, người ấy sẽ thấy người kia rơi vào hố phân ấy và phải cảm thọ những
cảm giác cực khổ, thống khổ, khốc liệt.
Này Sāriputta, cũng vậy, ở
đây với tâm của Ta, Ta tuệ tri tâm của một số người: "Hành nghiệp của người này như vậy, cử
chỉ như vậy, bước vào đạo lộ như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh vào
bàng sanh".
Sau
một thời gian, với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, Ta thấy kẻ ấy sau khi thân
hoại mạng chung, sanh vào bàng sanh, phải cảm thọ những cảm giác cực khổ, thống
khổ, khốc liệt.
39. (3) Này Sāriputta, ở
đây với tâm của Ta, Ta tuệ tri tâm của một số người:
"Hành nghiệp của người này như vậy,
cử chỉ như vậy, bước vào đạo lộ như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh
vào ngạ quỷ,
phải cảm thọ những cảm giác cực khổ, thống khổ, khốc liệt".
Này
Sāriputta, cũng như có một cây sống
trên miếng đất không bằng phẳng, với
lá thưa thớt, với bóng che từng đám lưa thưa. Và một người đi đến bị
nóng bức áp đảo, bị nóng bức hành hạ, mệt mỏi, khô cổ, đắng họng, khát nước và
đi thẳng đến cây ấy chỉ bằng một con đường. Một người có mắt thấy người ấy có
thể nói: "Hành nghiệp của người này
như vậy, cử chỉ như vậy và bước vào đạo lộ như vậy, sẽ đi đến cây ấy".
Sau một thời gian, người ấy sẽ thấy người kia ngồi hay nằm dưới bóng cây ấy và
phải cảm thọ những cảm giác cực khổ, thống khổ, khốc liệt.
Này Sāriputta, cũng vậy, ở
đây với tâm của Ta, Ta tuệ tri tâm của một số người: "Hành
nghiệp của người này như vậy, cử chỉ như vậy, bước vào đạo lộ như vậy, sau khi
thân hoại mạng chung, sẽ sanh vào ngạ
quỷ". Sau một thời gian, với
thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, Ta thấy kẻ ấy sau khi thân hoại mạng chung,
sanh vào ngạ quỷ, phải cảm thọ những cảm giác cực khổ, thống khổ, khốc liệt.
40. (4) Này Sāriputta, ở
đây với tâm của Ta, Ta biết tâm của một số người:
"Hành nghiệp của người này như vậy,
cử chỉ như vậy, bước vào đạo lộ như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh
vào loài người". Sau một thời gian, với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân,
Ta thấy kẻ ấy sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào loài người, và cảm thọ
được nhiều cảm giác lạc thọ.
Này
Sāriputta, cũng như có một cây sống
trên miếng đất bằng phẳng với lá sum sê, với bóng cây rậm rạp. Và một
người đi đến, bị nóng bức áp đảo, bị nóng bức hành hạ, mệt mỏi, khô cổ, đắng
họng, khát nước và đi thẳng đến cây ấy chỉ bằng một con đường. Một người có mắt
thấy người ấy có thể nói: "Hành
nghiệp của người này như vậy, cử chỉ của người này như vậy và bước vào đạo lộ
như vậy, sẽ đi đến cây ấy". Sau một thời gian, người ấy sẽ thấy người
kia, ngồi hay nằm dưới bóng cây ấy và cảm thọ được nhiều cảm giác lạc thọ.
Này Sāriputta, cũng vậy, ở
đây với tâm của Ta, Ta tuệ tri tâm của một số người:
"Hành nghiệp của người này như vậy, cử chỉ như vậy, bước
vào đạo lộ như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh vào loài người". Sau một thời gian, với thiên nhãn thanh tịnh
siêu nhân, Ta thấy kẻ ấy sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào loài người, và
cảm thọ được nhiều cảm giác lạc thọ.
41. (5) Này Sāriputta, ở
đây với tâm của Ta, Ta tuệ tri tâm của một số người:
"Hành nghiệp của người này như vậy, cử chỉ như vậy, bước vào đạo lộ như
vậy, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh vào thiện thú,
Thiên giới, cõi đời này". Sau
một thời gian, với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, Ta thấy kẻ ấy sau khi thân
hoại mạng chung, sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này và cảm thọ những
cảm giác cực lạc.
Này
Sāriputta, giống như một ngôi lầu, có
gác nhọn, có tô vôi cả trong lẫn ngoài, được che gió, có then chốt đóng lại và
có các cửa sổ khép kín. Tại đây có một sàng tọa, trải nệm lông dài,
trải nệm màu trắng, trải nệm bông có thêu hoa, trải nệm bằng da sơn dương gọi
là kadali, có nệm với khuôn màu treo phía trên, có gối dài màu đỏ cả hai đầu.
Và một người đi đến, bị nóng bức áp đảo, bị nóng bức hành hạ, mệt mỏi, khô cổ,
đắng họng, khát nước và đi thẳng đến ngôi lầu ấy. Một người có mắt thấy người
ấy có thể nói: "Hành nghiệp của
người này như vậy, cử chỉ như vậy, và bước vào đạo lộ như vậy, sẽ đi đến ngôi
lầu ấy". Sau một thời gian, người ấy sẽ thấy người kia ngồi hay nằm
trong ngôi lầu ấy, trong gác nhọn ấy, trên sàng tọa ấy và cảm thọ được nhiều
cảm thọ cực lạc.
Này Sāriputta, cũng vậy, ở
đây với tâm của Ta, Ta tuệ tri tâm của một số người: "Hành
nghiệp của người này như vậy, cử chỉ như vậy, bước vào đạo lộ như vậy, sau khi
thân hoại mạng chung, sẽ sanh vào thiện
thú, Thiên giới, cõi đời này". Sau
một thời gian, với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, Ta thấy kẻ ấy sau khi thân
hoại mạng chung, sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này và cảm thọ những
cảm giác cực lạc.
42. (6) Này Sāriputta, ở
đây với tâm của Ta, Ta tuệ tri tâm của một số người:
"Hành nghiệp của người này như vậy, cử chỉ như vậy, bước vào đạo lộ như
vậy, sẽ đoạn trừ các lậu hoặc, tự mình với thắng trí chứng
ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải
thoát như vậy". Sau một thời gian, Ta thấy vị ấy đoạn
trừ các lậu hoặc, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay
trong hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, cảm thọ những cảm giác
cực lạc.
Này
Sāriputta, giống như một hồ sen có
nước trong, có nước ngọt, có nước mát, có nước trong sáng, có bờ hồ khéo sắp
đặt, đẹp đẽ, và không xa hồ ấy có khu rừng rậm rạp. Một người đi đến,
bị nóng bức áp đảo, bị nóng bức hành hạ, mệt mỏi, khô cổ, đắng họng, khát nước
và đi thẳng đến hồ sen ấy. Một người có mắt thấy người ấy có thể nói: "Hành nghiệp của người này như vậy, cử
chỉ như vậy, và bước vào đạo lộ như vậy, sẽ đi đến hồ sen ấy". Sau một
thời gian, người ấy sẽ thấy người kia, sau khi tẩm mình vào hồ sen ấy, sau khi
tắm rửa, uống nước và làm cho dịu bớt mọi ưu tư, mệt mỏi, phiền não, sau khi ra
khỏi hồ liền qua ngồi hay nằm trong rừng cây rậm rạp ấy và cảm thọ những cảm
giác cực lạc.
Cũng vậy, này Sāriputta,
ở đây với tâm của Ta, Ta tuệ tri tâm của một số người: "Hành nghiệp của
người này như vậy, cử chỉ như vậy, bước vào đạo lộ như vậy, sẽ đoạn trừ các lậu hoặc, tự mình với
thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại vô lậu tâm giải
thoát, tuệ giải thoát như vậy". Sau một thời gian, Ta thấy vị ấy đoạn trừ
các lậu hoặc, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong
hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, cảm thọ những cảm giác cực lạc.
43. Này Sāriputta, năm loại này là năm sanh thú.
Này Sāriputta, có ai biết Ta như vậy, thấy Ta như vậy, và nói:
"Sa-môn Gotama không có pháp Thượng nhân, không có tri kiến thù thắng xứng
đáng bậc Thánh. Sa-môn Gotama thuyết pháp, pháp ấy tự mình tạo ra, do suy luận
tác thành, tùy thuộc trắc nghiệm". Này Sāriputta, nếu người ấy không từ bỏ
lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không đoạn trừ tà kiến ấy, thì người ấy sẽ bị
rơi vào địa ngục như một gánh nặng bị quăng bỏ một bên. Này Sāriputta, Tỷ-kheo thành
tựu giới hạnh, thành tựu Thiền định, thành tựu trí tuệ, có thể chứng được chánh
trí ngay trong hiện tại. Này Sāriputta, Ta nói như vậy là sự thành
tựu như vậy. Nếu người ấy không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không
đoạn trừ tà kiến ấy, thì người ấy sẽ bị rơi vào địa ngục như một gánh nặng bị
quăng bỏ một bên.
---------Toàn bộ bài kinh Đại Kinh
Sư Tử Hống ----
1. Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú tại Vesālī
(Tỳ-xá-ly), ở phía ngoài thành, trong một khu rừng phía Tây.
Lúc bấy giờ, Sunakkhatta thuộc bộ lạc Licchavī, vừa mới từ
bỏ Pháp và Luật này, nói lời nói như sau trong Hội chúng ở Vesālī: "Sa-môn
Gotama không có pháp thượng nhân, không có tri kiến thù thắng xứng đáng bậc
Thánh; Sa-môn Gotama thuyết pháp, pháp ấy tự mình tạo ra, do suy luận tác
thành, tùy thuận trắc nghiệm, và thuyết cho một mục tiêu đặc biệt, có khả năng
hướng thượng, có thể dẫn người thực hành diệt tận khổ đau".
2. Lúc ấy Tôn-giả Sāriputta (Xá-lợi-phất) vào buổi sáng, đắp
y, cầm bát, vào thành Vesālī để khất thực. Tôn-giả Sāriputta nghe Sunakkhatta
thuộc bộ lạc Licchavī nói như sau trong hội chúng ở Vesālī: "Sa-môn Gotama
không có pháp thượng nhân, không có tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh;
Sa-môn Gotama thuyết pháp, pháp ấy tự mình tạo ra, do suy luận tác thành, tùy
thuận trắc nghiệm và thuyết pháp cho một mục tiêu đặc biệt, có khả năng hướng
thượng, có thể dẫn người thực hành diệt tận khổ đau".
3. Rồi Tôn-giả Sāriputta khất thực xong, sau khi ăn và đi
khất thực trở về đến chỗ ở Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một
bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Tôn-giả Sāriputta bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Sunakkhatta thuộc bộ lạc Licchavī, vừa mới
từ bỏ Pháp và Luật này, nói lời nói như sau trong hội chúng Vesālī:
"Sa-môn Gotama không có pháp thượng nhân, không có tri kiến thù thắng xứng
đáng bậc Thánh; Sa-môn Gotama thuyết pháp, pháp ấy tự mình tạo ra, do suy luận
tác thành, tùy thuận trắc nghiệm, và thuyết cho một mục tiêu đặc biệt, có khả
năng hướng thượng, có thể dẫn người thực hành diệt tận khổ đau".
4. - Này Sāriputta, Sunakkhatta phẫn nộ và ngu si, do phẫn
nộ nên nói lên lời ấy. Này Sāriputta, ông ta nghĩ: "Ta sẽ nói xấu".
Thế mà kẻ ngu Sunakkhatta lại nói lời tán thán Như Lai. Này Sāriputta, ai nói
như sau là tán thán Như Lai: "Pháp ấy được thuyết giảng cho một mục tiêu
đặc biệt, có khả năng hướng dẫn người thực hành diệt tận khổ đau".
5. Này Sāriputta, đối với Sunakkhatta ngu si kia, sẽ không
có tùy pháp nào về Ta như sau: "Ðây là Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng
Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng
Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn".
6. Này Sāriputta, đối với Sunakkhatta ngu si kia, sẽ không
có tùy pháp nào về Ta như sau: "Ðây là Thế Tôn, vị đã chứng được các loại
thần thông, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân, hiện
hình, biến hình, đi ngang qua vách, qua thành, qua núi, như đi ngang hư không,
độn thổ trồi lên ngang qua đất liền như ở trong nước, đi trên nước không chìm
như trên đất liền, ngồi kiết-già đi trên hư không như con chim; với bàn tay,
chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại oai lực, đại oai thần như
vậy, có thể tự thân bay đến cõi Phạm Thiên".
7. Này Sāriputta, đối với Sunakkhatta ngu si kia sẽ không có
tùy pháp này về Ta như sau: "Ðây là Thế Tôn với thiên nhĩ thanh tịnh siêu
nhân có thể nghe hai loại tiếng chư Thiên và loài Người, xa và gần".
8. Này Sāriputta, đối với Sunakkhatta ngu si kia sẽ không có
tùy pháp nào về Ta như sau: "Ðây là Thế Tôn, sau khi đi sâu vào tâm chúng
sanh, tâm loài Người với tâm của mình, vị ấy biết được như sau: "Tâm có
tham biết là tâm có tham. Hay tâm không tham biết là tâm không tham. Tâm chuyên
chú biết là tâm chuyên chú. Tâm tán loạn biết là tâm tán loạn. Đại hành tâm
biết là đại hành tâm. Không phải đại hành tâm biết là không phải đại hành tâm.
Tâm chưa vô thượng biết là tâm chưa vô thượng. Tâm vô thượng biết là tâm vô
thượng. Tâm Thiền định biết là tâm Thiền định. Tâm không Thiền định biết là tâm
không Thiền định. Tâm giải thoát biết là tâm giải thoát. Tâm không giải thoát
biết là tâm không giải thoát". Vị ấy biết như vậy.
(Mười lực của Như Lai)
9. Này Sāriputta, Như Lai có đầy đủ mười Như Lai lực, chính
nhờ thành tựu mười lực này, Như Lai tự nhận cho mình địa vị Ngưu Vương, rống
tiếng rống con sư tử trong các Hội chúng và chuyển Phạm luân. Thế nào là mười?
10. (1) Ở đây, này Sāriputta, Như Lai như thật tuệ tri xứ là
xứ, phi xứ là phi xứ (Tri thị xứ phi xứ lực). Này Sāriputta, Như Lai như thật
tuệ tri xứ là xứ, phi xứ là phi xứ. Như vậy là Như Lai lực của Như Lai. Chính nhờ
Như Lai lực này, Như Lai tự nhận cho mình địa vị Ngưu Vương, rống lên tiếng
rống con sư tử trong các hội chúng, và chuyển Phạm luân.
11. (2) Lại nữa, này Sāriputta, Như Lai như thật tuệ tri quả
báo tùy thuộc sở do, tùy theo sở nhân của các hành nghiệp quá khứ, vị lai, hiện
tại (Tri tam thế nghiệp báo lực). Này Sāriputta, Như Lai như thật tuệ tri quả
báo tùy thuộc sở do, tùy theo sở nhân của các hành nghiệp quá khứ, vị lai, hiện
tại. Như vậy là Như Lai lực của Như Lai. Chính nhờ Như Lai lực này, Như Lai tự
nhận cho mình địa vị Ngưu Vương, rống lên tiếng rống con sư tử trong các hội
chúng, và chuyển Phạm luân.
12. (3) Lại nữa, này Sāriputta, Như Lai như thật tuệ tri con
đường đưa đến tất cả cảnh giới (Tri nhứt thiết đạo trí lực). Này Sāriputta, Như
Lai như thật tuệ tri con đường đưa đến tất cả cảnh giới. Như vậy là Như Lai lực
của Như Lai. Chính nhờ Như Lai lực này, Như Lai tự nhận cho mình địa vị Ngưu
Vương, rống lên tiếng rống con sư tử trong các hội chúng, và chuyển Phạm luân.
13. (4) Lại nữa, này Sāriputta, Như Lai như thật tuệ tri thế
giới với mọi cảnh giới, nhiều chủng loại, nhiều sai biệt (Tri thế gian chủng
chủng tánh lực). Này Sāriputta, Như Lai như thật tuệ tri thế giới với mọi cảnh
giới, nhiều chủng loại, nhiều sai biệt. Như vậy là Như Lai lực của Như Lai.
Chính nhờ Như Lai lực này, Như Lai tự nhận cho mình địa vị Ngưu Vương, rống lên
tiếng rống con sư tử trong các hội chúng, và chuyển Phạm luân.
14. (5) Lại nữa, này Sāriputta, Như Lai như thật tuệ tri chí
hướng sai biệt của các loại hữu tình (Tri tha chúng sanh chưởng chưởng dục
lực). Này Sāriputta, Như Lai như thật tuệ tri chí hướng sai biệt của các loại
hữu tình. Như vậy là Như Lai lực của Như Lai. Chính nhờ Như Lai lực này, Như
Lai tự nhận cho mình địa vị Ngưu Vương, rống lên tiếng rống con sư tử trong các
hội chúng, và chuyển Phạm luân.
15. (6) Lại nữa, này Sāriputta, Như Lai như thật tuệ tri
những căn thượng hạ của các loài hữu tình, loài Người (Tri tha chúng sanh chư
căn thượng hạ lực). Này Sāriputta, Như Lai như thật tuệ tri những căn thượng hạ
của các loài hữu tình, loài Người. Như vậy là Như Lai lực của Như Lai. Chính
nhờ Như Lai lực này, Như Lai tự nhận cho mình địa vị Ngưu Vương, rống lên tiếng
rống con sư tử trong các hội chúng, và chuyển Phạm luân.
16. (7) Lại nữa, này Sāriputta, Như Lai như thật tuệ tri sự
tạp nhiễm, sự thanh tịnh, sự xuất khởi của các Thiền, chứng về Thiền, về giải
thoát, về định (Tri chư Thiền tam muội lực). Này Sāriputta, Như Lai như thật
tuệ tri sự tạp nhiễm, sự thanh tịnh, sự xuất khởi của các Thiền, chứng về Thiền,
về giải thoát, về định. Như vậy là Như Lai lực của Như Lai. Chính nhờ Như Lai
lực này, Như Lai tự nhận cho mình địa vị Ngưu Vương, rống lên tiếng rống con sư
tử trong các hội chúng, và chuyển Phạm luân.
17. (8) Lại nữa, này Sāriputta, Như Lai nhớ đến các đời sống
quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi
đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một
trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều thành hoại kiếp. Ngài
nhớ rằng: "Tại chỗ kia, Ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai
cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi
chết tại chỗ kia, Ta được sanh ra chỗ nọ. Tại chỗ ấy, Ta có tên như thế này,
dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ
đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, Ta được sanh ra ở đây". Như
vậy, Như Lai nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các
chi tiết. Này Sāriputta, Như Lai nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai
đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi
đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại
kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều thành hoại kiếp. Ngài nhớ rằng: "Tại chỗ
kia, Ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ
lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, Ta
được sanh ra chỗ nọ. Tại chỗ ấy, Ta có tên như thế này, dòng họ như thế này,
giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này.
Sau khi chết tại chỗ nọ, Ta được sanh ra ở đây". Như vậy, Như Lai nhớ đến
nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết. Như vậy là
Như Lai lực của Như Lai. Chính nhờ Như Lai lực này, Như Lai tự nhận cho mình
địa vị Ngưu Vương, rống lên tiếng rống con sư tử trong các hội chúng, và chuyển
Phạm luân.
18. (9) Lại nữa, này Sāriputta, Như Lai với thiên nhãn thuần
tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Như Lai tuệ tri rõ rằng,
chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn,
kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ. Các chúng sanh này làm những ác hạnh về
thân, về lời và về ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo
tà kiến. Những người này sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác
thú, đọa xứ, địa ngục. Các chúng sanh này làm những thiện hạnh về thân, về lời
và về ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo
chánh kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các
thiện thú, cõi Trời, trên đời này. Như vậy, Như Lai với thiên nhãn thuần tịnh,
siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Như Lai tuệ tri rằng, chúng sanh,
người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất
hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Này Sāriputta, Như Lai với thiên nhãn thuần
tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Như Lai tuệ tri rõ rằng,
chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn,
kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ. Các chúng sanh này làm những ác hạnh về
thân, về lời và về ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo
tà kiến. Những người này sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác
thú, đọa xứ, địa ngục. Các chúng sanh này làm những thiện hạnh về thân, về lời
và về ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo
chánh kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các
thiện thú, cõi Trời, trên đời này. Như vậy, Như Lai với thiên nhãn thuần tịnh,
siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Như Lai tuệ tri rằng, chúng sanh,
người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất
hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Như vậy là Như Lai lực của Như Lai. Chính nhờ
Như Lai lực này, Như Lai tự nhận cho mình địa vị Ngưu Vương, rống lên tiếng
rống con sư tử trong các hội chúng, và chuyển Phạm luân.
19. (10) Lại nữa, này Sāriputta, Như Lai nhờ đoạn trừ các
lậu hoặc tự mình chứng tri, chứng ngộ, thành tựu và an trú ngay trong hiện tại
vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Này Sāriputta, Như Lai nhờ đoạn trừ các
lậu hoặc, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện
tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Như vậy là Như Lai lực của Như Lai.
Chính nhờ Như Lai lực này, Như Lai tự nhận cho mình địa vị Ngưu Vương, rống
tiếng rống con sư tử trong các Hội chúng và chuyển Phạm luân.
20. Này Sāriputta, Như Lai có đầy đủ mười Như Lai lực. Chính
nhờ thành tựu mười lực này, Như Lai tự nhận cho mình địa vị Ngưu Vương, rống
tiếng rống sư tử trong các Hội chúng và chuyển Phạm luân.
21. Này Sāriputta, nếu ai biết Ta như vậy, thấy Ta như vậy
mà còn nói: "Sa-môn Gotama không có pháp Thượng nhân, không có tri kiến
thù thắng xứng đáng bậc Thánh. Sa-môn Gotama thuyết pháp, pháp ấy tự mình tạo
ra, do suy luận tác thành, tùy thuận trắc nghiệm, thuyết pháp cho một mục tiêu
đặc biệt, có khả năng hướng thượng, có thể hướng dẫn người thực hành diệt tận
khổ đau". Này Sāriputta, nếu người ấy không từ bỏ lời nói ấy; không từ bỏ tâm
ấy, không đoạn trừ tà kiến ấy; người ấy sẽ bị rơi vào địa ngục như một gánh
nặng bị quăng bỏ một bên. Này Sāriputta, như Tỷ-kheo thành tựu giới hạnh, thành
tựu Thiền định, thành tựu trí tuệ có thể chứng được chánh trí ngay trong hiện
tại. Này Sāriputta, Ta nói như vậy là sự thành tựu như vậy. Nếu người ấy không
từ bỏ lời nói ấy không từ bỏ tâm ấy, không đoạn trừ tà kiến ấy; người ấy sẽ bị
rơi vào địa ngục như một gánh nặng bị quăng bỏ một bên.
(Bốn pháp vô sở úy)
22. Này Sāriputta, có bốn pháp vô sở úy, chính nhờ thành tựu
bốn pháp này, Như Lai tự nhận cho mình địa vị Ngưu Vương, rống tiếng rống con
sử tử trong các hội chúng và chuyển Phạm luân. Thế nào là bốn?
23. Này Sāriputta, Ta thấy không có lý do gì, một Sa-môn,
Bà-la-môn, chư Thiên, Ma vương, Phạm thiên hay một ai ở đời có thể chỉ trích Ta
đúng pháp rằng: "Các pháp này chưa được chứng ngộ hoàn toàn, mà quý vị tự
xưng đã chứng ngộ hoàn toàn". Này Sāriputta, vì Ta thấy không có lý do gì
như vậy, nên Ta sống đạt được an ổn, đạt được không sợ hãi, đạt được vô úy.
24. Này Sāriputta, Ta thấy không có lý do gì, một Sa-môn,
Bà-la-môn, chư Thiên, Ma vương, Phạm thiên hay một ai ở đời có thể chỉ trích Ta
đúng pháp rằng: "Các lậu hoặc này chưa được đoạn trừ mà quý vị tự xưng đã
đoạn trừ". Này Sāriputta, vì Ta thấy không có lý do gì như vậy, nên Ta
sống đạt được an ổn, đạt được không sợ hãi, đạt được vô úy.
25. Này Sāriputta, Ta thấy không có lý do gì, một Sa-môn,
Bà-la-môn, chư Thiên, Ma vương, Phạm thiên hay một ai ở đời có thể chỉ trích Ta
đúng pháp rằng: "Những pháp này được gọi là các chướng ngại pháp khi được
thực hành thời không có gì gọi là chướng ngại pháp cả". Này Sāriputta, vì
Ta thấy không có lý do gì như vậy, nên Ta sống đạt được an ổn, đạt được không
sợ hãi, đạt được vô úy.
26. Này Sāriputta, Ta thấy không có lý do gì, một Sa-môn,
Bà-la-môn, chư Thiên, Ma vương, Phạm thiên hay một ai ở đời có thể chỉ trích Ta
đúng pháp rằng: "Pháp do quý vị thuyết giảng không đưa đến mục tiêu đặc
biệt, không có khả năng hướng thượng, không có thể dẫn người thực hành đến diệt
tận khổ đau". Này Sāriputta, vì Ta thấy không có lý do gì như vậy, nên Ta
sống đạt được an ổn, đạt được không sợ hãi, đạt được vô úy.
27. Này Sāriputta, có bốn pháp vô sở úy, chính nhờ thành tựu
bốn pháp này, Như Lai tự nhận cho mình địa vị Ngưu Vương, rống tiếng rống con
sử tử trong các hội chúng và chuyển Phạm luân.
28. Này Sāriputta, nếu ai biết Ta như vậy, thấy Ta như vậy
mà còn nói: "Sa-môn Gotama không có pháp Thượng nhân, không có tri kiến
thù thắng xứng đáng bậc Thánh. Sa-môn Gotama thuyết pháp, pháp ấy tự mình tạo
ra, do suy luận tác thành, tùy thuận trắc nghiệm, thuyết pháp cho một mục tiêu
đặc biệt, có khả năng hướng thượng, có thể hướng dẫn người thực hành diệt tận
khổ đau". Này Sāriputta, nếu người ấy không từ bỏ lời nói ấy; không từ bỏ
tâm ấy, không đoạn trừ tà kiến ấy; người ấy sẽ bị rơi vào địa ngục như một gánh
nặng bị quăng bỏ một bên. Này Sāriputta, như Tỷ-kheo thành tựu giới hạnh, thành
tựu Thiền định, thành tựu trí tuệ có thể chứng được chánh trí ngay trong hiện
tại. Này Sāriputta, Ta nói như vậy là sự thành tựu như vậy. Nếu người ấy không
từ bỏ lời nói ấy không từ bỏ tâm ấy, không đoạn trừ tà kiến ấy; người ấy sẽ bị
rơi vào địa ngục như một gánh nặng bị quăng bỏ một bên.
(Tám hội chúng)
29. Này Sāriputta, có tám Hội chúng này: Hội chúng
Sát-đế-lỵ, Hội chúng Bà-la-môn, Hội chúng Gia chủ, Hội chúng Sa-môn, Hội chúng
Tứ thiên vương, Hội chúng Tam thập tam thiên, Hội chúng Māra, Hội chúng Phạm
thiên. Này Sāriputta, có tám Hội chúng này. Này Sāriputta, Như Lai thành tựu
bốn pháp vô sở úy như vậy, đến gần và vào tám Hội chúng này.
30. Này Sāriputta, Ta nhớ lại Ta đã đến hàng trăm Hội chúng
Sát-đế-lỵ. Tuy vậy, trước khi Ta ngồi xuống tại chỗ ấy, trước khi Ta nói chuyện
và trước khi Ta đàm luận; này Sāriputta, ta thấy không có lý do gì để nghĩ
rằng: "Chắc chắn sự sợ hãi và run sợ sẽ đến ám ảnh Ta". Này
Sāriputta, vì Ta thấy không có lý do gì như vậy, nên Ta sống đạt được an ổn,
đạt được không sợ hãi, đạt được vô úy.
Này Sāriputta, Ta nhớ lại, Ta đã đến hàng trăm Hội chúng
Bà-la-môn...; Hội chúng Gia chủ...; Hội chúng Sa-môn...; Hội chúng Tứ thiên
vương...; Hội chúng Tam thập tam thiên...; Hội chúng Māra...; Hội chúng Phạm
thiên. Tuy vậy, trước khi Ta ngồi xuống tại chỗ ấy, trước khi Ta nói chuyện và
trước khi Ta đàm luận, này Sāriputta, Ta thấy không có một lý do gì để nghĩ
rằng: "Chắc chắn sự sợ hãi và run sợ sẽ đến ám ảnh Ta". Này
Sāriputta, vì Ta thấy không có lý do gì như vậy, nên Ta sống đạt được an ổn,
đạt được không sợ hãi, đạt được vô úy.
31. Này Sāriputta, nếu ai biết Ta như vậy, thấy Ta như vậy
mà còn nói: "Sa-môn Gotama không có pháp Thượng nhân, không có tri kiến
thù thắng xứng đáng bậc Thánh. Sa-môn Gotama thuyết pháp, pháp ấy tự mình tạo
ra, do suy luận tác thành, tùy thuận trắc nghiệm, thuyết pháp cho một mục tiêu
đặc biệt, có khả năng hướng thượng, có thể hướng dẫn người thực hành diệt tận
khổ đau". Này Sāriputta, nếu người ấy không từ bỏ lời nói ấy; không từ bỏ
tâm ấy, không đoạn trừ tà kiến ấy; người ấy sẽ bị rơi vào địa ngục như một gánh
nặng bị quăng bỏ một bên. Này Sāriputta, như Tỷ-kheo thành tựu giới hạnh, thành
tựu Thiền định, thành tựu trí tuệ có thể chứng được chánh trí ngay trong hiện
tại. Này Sāriputta, Ta nói như vậy là sự thành tựu như vậy. Nếu người ấy không
từ bỏ lời nói ấy không từ bỏ tâm ấy, không đoạn trừ tà kiến ấy; người ấy sẽ bị
rơi vào địa ngục như một gánh nặng bị quăng bỏ một bên.
(Bốn loại sanh)
32. Này Sāriputta, có bốn loại sanh. Thế nào là bốn? Noãn
sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh.
33. Này Sāriputta, thế nào là noãn sanh? Này Sāriputta,
những loại chúng sanh nào phá vỏ trứng, mà sanh, này Sāriputta như vậy gọi là
noãn sanh. Và này Sāriputta, thế nào là thai sanh? Này Sāriputta, những loại
chúng sanh nào phá màn da mỏng che chỗ kín mà sanh, này Sāriputta, như vậy gọi
là thai sanh. Và này Sāriputta, thế nào là thấp sanh? Này Sāriputta, những loại
chúng sanh nào sanh ra từ cá thúi, từ xác chết thúi, từ cháo cơm thúi, hay
trong hồ nước dơ hay trong ao nước nhớp. Này Sāriputta, như vậy gọi là thấp
sanh. Và này Sāriputta, thế nào là hóa sanh? Chư Thiên, các chúng sanh ở địa
ngục, một số thuộc loài người và một số thuộc đọa xứ. Này Sāriputta, như vậy
gọi là hóa sanh. Này Sāriputta có bốn loại sanh như vậy.
34. Này Sāriputta, nếu ai biết Ta như vậy, thấy Ta như vậy
mà còn nói: "Sa-môn Gotama không có pháp Thượng nhân, không có tri kiến
thù thắng xứng đáng bậc Thánh. Sa-môn Gotama thuyết pháp, pháp ấy tự mình tạo
ra, do suy luận tác thành, tùy thuận trắc nghiệm, thuyết pháp cho một mục tiêu
đặc biệt, có khả năng hướng thượng, có thể hướng dẫn người thực hành diệt tận
khổ đau". Này Sāriputta, nếu người ấy không từ bỏ lời nói ấy; không từ bỏ
tâm ấy, không đoạn trừ tà kiến ấy; người ấy sẽ bị rơi vào địa ngục như một gánh
nặng bị quăng bỏ một bên. Này Sāriputta, như Tỷ-kheo thành tựu giới hạnh, thành
tựu Thiền định, thành tựu trí tuệ có thể chứng được chánh trí ngay trong hiện
tại. Này Sāriputta, Ta nói như vậy là sự thành tựu như vậy. Nếu người ấy không
từ bỏ lời nói ấy không từ bỏ tâm ấy, không đoạn trừ tà kiến ấy; người ấy sẽ bị
rơi vào địa ngục như một gánh nặng bị quăng bỏ một bên.
(Năm
sanh thú và Niết-bàn)
35. Này
Sāriputta, có năm loại sanh thú này. Thế nào là năm? Ðịa ngục, bàng sanh, ngạ
quỷ, loài Người, chư Thiên.
36. (1)
Này Sāriputta, Ta tuệ tri địa ngục, con đường đưa đến địa ngục và hành lộ đưa
đến địa ngục. Tùy theo hạnh nghiệp, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào
cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục, sự việc này ta cũng tuệ tri.
(2) Và
này Sāriputta, Ta tuệ tri bàng sanh, con đường đưa đến bàng sanh và hành lộ đưa
đến bàng sanh. Tùy theo hạnh nghiệp, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh
vào bàng sanh, sự việc này Ta cũng tuệ tri.
(3) Và
này Sāriputta, Ta tuệ tri ngạ quỷ, con đường đưa đến ngạ quỷ và hành lộ đưa đến
ngạ quỷ. Tùy theo hành nghiệp, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào ngạ
quỷ, sự việc này Ta cũng tuệ tri.
(4) Và
này Sāriputta, Ta cũng tuệ tri loài Người, con đường đưa đến thế giới loài
Người và hành lộ đưa đến thế giới loài Người. Tùy theo hành nghiệp, sau khi
thân hoại mạng chung, sanh vào loài Người, sự việc này Ta cũng tuệ tri.
(5) Và
này Sāriputta, Ta cũng tuệ tri chư Thiên, con đường đưa đến Thiên giới và hành
lộ đưa đến Thiên giới. Tùy theo hành nghiệp, sau khi thân hoại mạng chung, sanh
vào thiện thú, Thiên giới, thế giới này, sự việc này Ta cũng tuệ tri.
Và này
Sāriputta, Ta cũng tuệ tri Niết-bàn, con đường đưa đến Niết-bàn và hành lộ đưa
đến Niết-bàn. Tùy theo hành nghiệp, do đoạn trừ các lậu hoặc, sau khi tự mình
với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại vô lậu tâm
giải thoát, tuệ giải thoát, sự việc này, Ta cũng tuệ tri.
37. (1)
Này Sāriputta, ở đây, với tâm của Ta, Ta tuệ tri tâm của một số người. Do hành
nghiệp của người này như vậy, cử chỉ như vậy, bước vào đạo lộ như vậy, sau khi
thân hoại mạng chung sẽ sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục như vậy. Sau
một thời gian, với thiên nhãn thanh tịnh, siêu nhân, Ta thấy người ấy, sau khi
thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục, phải cảm thọ
những cảm giác cực khổ, thống khổ, khốc liệt. Này Sāriputta, cũng như có một hố
than sâu hơn thân người, đầy vun than hừng, không có lửa ngọn, không có khói,
và một người đi đến, bị nóng bức áp đảo, bị nóng bức hành hạ, mệt mỏi khô cổ,
đắng họng, khát nước, và đi thẳng đến hố than ấy chỉ bằng một con đường. Một
người có mắt thấy người ấy, có thể nói: "Hành nghiệp của người này như
vậy, cử chỉ như vậy, bước vào đạo lộ như vậy, sẽ đi đến hố than kia". Sau
một thời gian, người ấy sẽ thấy người kia rơi vào hố than ấy và phải cảm thọ những
cảm giác cực khổ, thống khổ, khốc liệt. Này Sāriputta, cũng vậy, ở đây với tâm
của Ta, Ta tuệ tri tâm của một số người: "Hành nghiệp của người này như
vậy, cử chỉ như vậy, bước vào đạo lộ như vậy, sau khi thân hoại mạng chung sẽ
sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục như vậy". Sau một thời gian, với
thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, Ta thấy người ấy sau khi thân hoại mạng chung,
sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục, phải cảm thọ những cảm giác cực khổ,
thống khổ, khốc liệt.
38. (2)
Này Sāriputta, ở đây với tâm của Ta, Ta tuệ tri tâm của một số người:
"Hành nghiệp của người này như vậy, cử chỉ như vậy, bước vào đạo lộ như
vậy, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh vào bàng sanh". Sau một thời
gian, với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, Ta thấy kẻ ấy sau khi thân hoại mạng
chung, sanh vào bàng sanh, phải cảm thọ những cảm giác cực khổ, thống khổ, khốc
liệt. Này Sāriputta, cũng như có một hố phân, sâu hơn thân người, đầy những
phẩn uế, và một người đi đến, bị nóng bức áp đảo, bị nóng bức hành hạ, mệt mỏi,
khô cổ, đắng họng, khát nước và đi thẳng đến hố phân ấy chỉ bằng một con đường.
Một người có mắt thấy người ấy có thể nói: "Hành nghiệp của người này như
vậy, cử chỉ như vậy và bước vào đạo lộ như vậy, sẽ đi đến hố phân ấy". Sau
một thời gian, người ấy sẽ thấy người kia rơi vào hố phân ấy và phải cảm thọ
những cảm giác cực khổ, thống khổ, khốc liệt. Này Sāriputta, cũng vậy, ở đây
với tâm của Ta, Ta tuệ tri tâm của một số người: "Hành nghiệp của người
này như vậy, cử chỉ như vậy, bước vào đạo lộ như vậy, sau khi thân hoại mạng
chung, sẽ sanh vào bàng sanh". Sau một thời gian, với thiên nhãn thanh
tịnh siêu nhân, Ta thấy kẻ ấy sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào bàng sanh,
phải cảm thọ những cảm giác cực khổ, thống khổ, khốc liệt.
39. (3)
Này Sāriputta, ở đây với tâm của Ta, Ta tuệ tri tâm của một số người:
"Hành nghiệp của người này như vậy, cử chỉ như vậy, bước vào đạo lộ như
vậy, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh vào ngạ quỷ, phải cảm thọ những cảm
giác cực khổ, thống khổ, khốc liệt". Này Sāriputta, cũng như có một cây
sống trên miếng đất không bằng phẳng, với lá thưa thớt, với bóng che từng đám
lưa thưa. Và một người đi đến bị nóng bức áp đảo, bị nóng bức hành hạ, mệt mỏi,
khô cổ, đắng họng, khát nước và đi thẳng đến cây ấy chỉ bằng một con đường. Một
người có mắt thấy người ấy có thể nói: "Hành nghiệp của người này như vậy,
cử chỉ như vậy và bước vào đạo lộ như vậy, sẽ đi đến cây ấy". Sau một thời
gian, người ấy sẽ thấy người kia ngồi hay nằm dưới bóng cây ấy và phải cảm thọ
những cảm giác cực khổ, thống khổ, khốc liệt. Này Sāriputta, cũng vậy, ở đây
với tâm của Ta, Ta tuệ tri tâm của một số người: "Hành nghiệp của người
này như vậy, cử chỉ như vậy, bước vào đạo lộ như vậy, sau khi thân hoại mạng
chung, sẽ sanh vào ngạ quỷ". Sau một thời gian, với thiên nhãn thanh tịnh
siêu nhân, Ta thấy kẻ ấy sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào ngạ quỷ, phải
cảm thọ những cảm giác cực khổ, thống khổ, khốc liệt.
40. (4)
Này Sāriputta, ở đây với tâm của Ta, Ta biết tâm của một số người: "Hành
nghiệp của người này như vậy, cử chỉ như vậy, bước vào đạo lộ như vậy, sau khi
thân hoại mạng chung, sẽ sanh vào loài người". Sau một thời gian, với
thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, Ta thấy kẻ ấy sau khi thân hoại mạng chung,
sanh vào loài người, và cảm thọ được nhiều cảm giác lạc thọ. Này Sāriputta,
cũng như có một cây sống trên miếng đất bằng phẳng với lá sum sê, với bóng cây
rậm rạp. Và một người đi đến, bị nóng bức áp đảo, bị nóng bức hành hạ, mệt mỏi,
khô cổ, đắng họng, khát nước và đi thẳng đến cây ấy chỉ bằng một con đường. Một
người có mắt thấy người ấy có thể nói: "Hành nghiệp của người này như vậy,
cử chỉ của người này như vậy và bước vào đạo lộ như vậy, sẽ đi đến cây ấy".
Sau một thời gian, người ấy sẽ thấy người kia, ngồi hay nằm dưới bóng cây ấy và
cảm thọ được nhiều cảm giác lạc thọ. Này Sāriputta, cũng vậy, ở đây với tâm của
Ta, Ta tuệ tri tâm của một số người: "Hành nghiệp của người này như vậy,
cử chỉ như vậy, bước vào đạo lộ như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh
vào loài người". Sau một thời gian, với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân,
Ta thấy kẻ ấy sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào loài người, và cảm thọ
được nhiều cảm giác lạc thọ.
41. (5)
Này Sāriputta, ở đây với tâm của Ta, Ta tuệ tri tâm của một số người:
"Hành nghiệp của người này như vậy, cử chỉ như vậy, bước vào đạo lộ như
vậy, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời
này". Sau một thời gian, với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, Ta thấy kẻ
ấy sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này và
cảm thọ những cảm giác cực lạc. Này Sāriputta, giống như một ngôi lầu, có gác
nhọn, có tô vôi cả trong lẫn ngoài, được che gió, có then chốt đóng lại và có
các cửa sổ khép kín. Tại đây có một sàng tọa, trải nệm lông dài, trải nệm màu
trắng, trải nệm bông có thêu hoa, trải nệm bằng da sơn dương gọi là kadali, có
nệm với khuôn màu treo phía trên, có gối dài màu đỏ cả hai đầu. Và một người đi
đến, bị nóng bức áp đảo, bị nóng bức hành hạ, mệt mỏi, khô cổ, đắng họng, khát
nước và đi thẳng đến ngôi lầu ấy. Một người có mắt thấy người ấy có thể nói:
"Hành nghiệp của người này như vậy, cử chỉ như vậy, và bước vào đạo lộ như
vậy, sẽ đi đến ngôi lầu ấy". Sau một thời gian, người ấy sẽ thấy người kia
ngồi hay nằm trong ngôi lầu ấy, trong gác nhọn ấy, trên sàng tọa ấy và cảm thọ
được nhiều cảm thọ cực lạc. Này Sāriputta, cũng vậy, ở đây với tâm của Ta, Ta
tuệ tri tâm của một số người: "Hành nghiệp của người này như vậy, cử chỉ
như vậy, bước vào đạo lộ như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh vào
thiện thú, Thiên giới, cõi đời này". Sau một thời gian, với thiên nhãn
thanh tịnh siêu nhân, Ta thấy kẻ ấy sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào
thiện thú, Thiên giới, cõi đời này và cảm thọ những cảm giác cực lạc.
42. (6)
Này Sāriputta, ở đây với tâm của Ta, Ta tuệ tri tâm của một số người:
"Hành nghiệp của người này như vậy, cử chỉ như vậy, bước vào đạo lộ như
vậy, sẽ đoạn trừ các lậu hoặc, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an
trú ngay trong hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát như vậy".
Sau một thời gian, Ta thấy vị ấy đoạn trừ các lậu hoặc, tự mình với thắng trí
chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ
giải thoát, cảm thọ những cảm giác cực lạc. Này Sāriputta, giống như một hồ sen
có nước trong, có nước ngọt, có nước mát, có nước trong sáng, có bờ hồ khéo sắp
đặt, đẹp đẽ, và không xa hồ ấy có khu rừng rậm rạp. Một người đi đến, bị nóng
bức áp đảo, bị nóng bức hành hạ, mệt mỏi, khô cổ, đắng họng, khát nước và đi
thẳng đến hồ sen ấy. Một người có mắt thấy người ấy có thể nói: "Hành
nghiệp của người này như vậy, cử chỉ như vậy, và bước vào đạo lộ như vậy, sẽ đi
đến hồ sen ấy". Sau một thời gian, người ấy sẽ thấy người kia, sau khi tẩm
mình vào hồ sen ấy, sau khi tắm rửa, uống nước và làm cho dịu bớt mọi ưu tư,
mệt mỏi, phiền não, sau khi ra khỏi hồ liền qua ngồi hay nằm trong rừng cây rậm
rạp ấy và cảm thọ những cảm giác cực lạc. Cũng vậy, này Sāriputta, ở đây với
tâm của Ta, Ta tuệ tri tâm của một số người: "Hành nghiệp của người này
như vậy, cử chỉ như vậy, bước vào đạo lộ như vậy, sẽ đoạn trừ các lậu hoặc, tự
mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại vô lậu
tâm giải thoát, tuệ giải thoát như vậy". Sau một thời gian, Ta thấy vị ấy
đoạn trừ các lậu hoặc, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú
ngay trong hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, cảm thọ những cảm
giác cực lạc.
43. Này
Sāriputta, năm loại này là năm sanh thú. Này Sāriputta, có ai biết Ta như vậy,
thấy Ta như vậy, và nói: "Sa-môn Gotama không có pháp Thượng nhân, không
có tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh. Sa-môn Gotama thuyết pháp, pháp ấy
tự mình tạo ra, do suy luận tác thành, tùy thuộc trắc nghiệm". Này
Sāriputta, nếu người ấy không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không đoạn
trừ tà kiến ấy, thì người ấy sẽ bị rơi vào địa ngục như một gánh nặng bị quăng
bỏ một bên. Này Sāriputta, Tỷ-kheo thành tựu giới hạnh, thành tựu Thiền định,
thành tựu trí tuệ, có thể chứng được chánh trí ngay trong hiện tại. Này
Sāriputta, Ta nói như vậy là sự thành tựu như vậy. Nếu người ấy không từ bỏ lời
nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không đoạn trừ tà kiến ấy, thì người ấy sẽ bị rơi
vào địa ngục như một gánh nặng bị quăng bỏ một bên.
(Khổ hạnh của Bồ-tát)
44. Này Sāriputta, Ta thắng tri phạm hạnh, đầy đủ bốn hạnh:
về khổ hạnh, Ta khổ hạnh đệ nhất; về bần uế, Ta bần uế đệ nhất; về yểm ly, Ta
yểm ly đệ nhất; về độc cư, Ta độc cư đệ nhất.
45. Này Sāriputta, ở đây, khổ hạnh của Ta như sau: Ta sống
lõa thể, phóng túng, không theo khuôn phép, liếm tay cho sạch, đi khất thực
không chịu bước tới, không nhận đồ ăn mang đến, không nhận đồ ăn đặc biệt nấu
cho mình, không nhận mời đi ăn, không nhận đồ ăn từ nơi nồi chảo, không nhận đồ
ăn tại ngưỡng cửa, không nhận đồ ăn đặt giữa những cây gậy, không nhận đồ ăn
đặt giữa những cối giã gạo, không nhận đồ ăn từ hai người đang ăn, không nhận
đồ ăn từ người đàn bà có thai, không nhận đồ ăn từ người đàn bà đang cho con
bú, không nhận đồ ăn từ người đàn bà đang giao cấu, không nhận đồ ăn đi quyên,
không nhận đồ ăn tại chỗ có chó đứng, không nhận đồ ăn tại chỗ có ruồi bu,
không ăn cá, ăn thịt, không uống rượu nấu, rượu men. Ta chỉ nhận đồ ăn tại một
nhà, chỉ nhận ăn một miếng, hay chỉ nhận ăn tại hai nhà, chỉ nhận ăn hai
miếng…, hay chỉ nhận ăn tại bảy nhà, chỉ nhận ăn bảy miếng. Ta nuôi sống chỉ
với một chén, nuôi sống chỉ với hai chén…, nuôi sống chỉ với bảy chén. Ta chỉ
ăn một ngày một bữa, hai ngày một bữa…, bảy ngày một bữa. Như vậy Ta sống theo
hạnh tiết chế ăn uống cho đến nửa tháng mới ăn một lần.
Ta chỉ ăn cỏ lúa để sống, lúa tắc, gạo lức, ăn hột cải
nīvāra, ăn da vụn, ăn trấu, uống nước bột gạo, ăn bột vừng, ăn cỏ, ăn phân bò,
ăn trái cây, ăn rễ cây trong rừng, ăn trái cây rụng để sống. Ta mặc vải gai
thô, mặc vải gai thô lẫn với các vải khác, mặc vải tẩm liệm rồi quăng đi, mặc
áo phấn tảo y, mặc vỏ cây tirīṭaka làm áo, mặc da con sơn dương đen, mặc áo bện
từng mảnh da con sơn dương đen, mặc áo bằng cỏ cát tường, mặc áo vỏ cây, mặc áo
bằng tấm gỗ nhỏ, mặc áo bằng tóc bện lại thành mền, mặc áo bằng đuôi ngựa bện
lại, mặc áo bằng lông cú.
Ta sống nhổ râu tóc, Ta theo tập tục sống nhổ râu tóc, Ta
theo hạnh thường đứng không dùng chỗ ngồi, Ta là người ngồi chò hỏ, sống tinh
tấn theo hạnh ngồi chò hỏ. Ta dùng gai làm giường, thường ngủ nằm trên giường
gai, sống dùng ván gỗ làm giường, sống nằm trên đất trần, thường nằm ngủ một
bên hông, sống để bụi và nhớp che dính thân mình, sống và ngủ ngoài trời, theo
hạnh bạ đâu nằm đấy, sống ăn các uế vật, sống không uống nước lạnh, theo hạnh
không uống nước lạnh, sống một đêm tắm ba lần, theo hạnh xuống nước tắm. Như
vậy Ta sống theo hạnh hành hạ, dày vò thân thể theo nhiều cách. Này Sāriputta,
như vậy là khổ hạnh của Ta.
46. Này Sāriputta, ở đây hạnh bần uế của Ta như sau: Trên
thân Ta, bụi bặm chất đầy trải nhiều năm tháng, đóng thành tấm, thành miếng.
Như gốc cây tinduka bụi bặm chất đầy trải nhiều năm tháng, đóng thành tấm,
thành miếng; cũng vậy, này Sāriputta, trên thân Ta bụi bặm chất đầy trải nhiều năm
tháng, đóng thành tấm, thành miếng. Này Sāriputta, Ta không nghĩ rằng:
"Với tay của Ta, Ta hãy phủi sạch bụi bặm này đi, hay những người khác với
tay của họ hãy phủi sạch bụi bặm này đi cho Ta". Này Sāriputta, Ta không
có nghĩ như vậy. Này Sāriputta, như vậy là sự bần uế của Ta.
47. Này Sāriputta, như thế này là sự yểm ly của Ta. Này
Sāriputta, tỉnh giác, Ta đi tới; tỉnh giác Ta đi lui, Ta an trú lòng từ cho đến
trong một giọt nước với tâm tư: "Mong rằng Ta không làm hại một chúng sanh
nhỏ nào trong những ác đạo của họ!" Này Sāriputta, như vậy là sự yểm ly
của Ta.
48. Này Sāriputta, như thế này là sự độc cư của Ta. Này
Sāriputta, Ta đi sâu vào một khu rừng và an trú tại chỗ ấy. Khi Ta thấy người
chăn bò, người mục súc, người cắt cỏ, người đốn củi hay người thợ rừng, Ta liền
chạy từ rừng này qua rừng khác, từ lùm cây này qua lùm cây khác, từ thung lũng
này qua thung lũng khác, từ đồi cao này qua đồi cao khác. Vì sao vậy? Ta nghĩ
rằng: "Mong họ đừng thấy Ta, và mong Ta đừng thấy họ!" Này Sāriputta,
giống như một con thú rừng thấy người liền chạy từ rừng này qua rừng khác, từ
lùm cây này qua lùm cây khác, từ thung lũng này qua thung lũng khác, từ đồi cao
này qua đồi cao khác. Cũng vậy, này Sāriputta, khi Ta thấy người chăn bò, người
mục súc, người cắt cỏ, người đốn củi, hay người tiều phu, Ta liền chạy từ rừng
này qua rừng khác, từ lùm cây này qua lùm cây khác, từ thung lũng này qua thung
lũng khác, từ đồi cao này qua đồi cao khác. Vì sao vậy? Ta nghĩ rằng:
"Mong họ đừng thấy Ta, và mong Ta đừng thấy họ!" Này Sāriputta, như
vậy là hạnh độc cư của Ta.
49. Này Sāriputta, rồi Ta bò bốn chân đến các chuồng bò, khi
các con bò cái đã bỏ đi, khi các người chăn bò không có mặt, rồi Ta ăn phân các
con bò con, các con bò còn trẻ, các con bò còn bú. Khi nước tiểu và phân của Ta
còn tồn tại, Ta tự nuôi sống với các loại ấy. Này Sāriputta, như vậy là hạnh
đại bất tịnh thực của Ta.
50. Này Sāriputta, Ta đi sâu vào một khu rừng rậm rạp kinh
hoàng và an trú tại chỗ ấy. Này Sāriputta, tại khu rừng rậm rạp kinh hoàng này,
những ai còn tham ái đi vào khu rừng rậm rạp ấy, thời lông tóc người ấy dựng
ngược. Này Sāriputta, rồi Ta trong những đêm đông lạnh lẽo, giữa những ngày
mồng tám, khi có tuyết rơi, trong những đêm như vậy, Ta sống giữa trời, và ban
ngày sống trong khu rừng rậm rạp. Ta sống trong những ngày cuối tháng hè, ban
ngày thì sống giữa trời, còn ban đêm trong khu rừng rậm rạp. Rồi này Sāriputta,
những bài kệ kỳ diệu từ trước chưa từng được nghe sau đây được khởi lên:
Nay bị thiêu đốt, bị buốt lạnh,
Cô độc sống trong rừng kinh hoàng,
Trần truồng, Ta ngồi không lửa ấm,
Ẩn sĩ, trong lý tưởng đăm chiêu.
Cô độc sống trong rừng kinh hoàng,
Trần truồng, Ta ngồi không lửa ấm,
Ẩn sĩ, trong lý tưởng đăm chiêu.
51. Này Sāriputta, Ta nằm ngủ trong bãi tha ma, dựa trên một
bộ xương. Này Sāriputta, những đứa mục đồng đến gần Ta, khạc nhổ trên Ta, tiểu
tiện trên Ta, rắc bụi trên Ta và lấy que đâm vào lỗ tai. Này Sāriputta, và Ta
biết Ta không khởi ác tâm đối với chúng. Này Sāriputta, như vậy là hạnh trú xả
của Ta.
52. Này Sāriputta, lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn có những
thuyết như sau, có những kiến giải như sau: "Sự thanh tịnh đạt được nhờ
món ăn". Họ nói: "Chúng ta sống nhờ trái táo", và họ ăn trái
táo, họ ăn bột táo, họ uống nước trái táo dưới nhiều hình thức. Này Sāriputta,
Ta tự xưng Ta sống chỉ ăn một trái táo. Này Sāriputta, có thể các người nghĩ
như sau: "Trái táo thời ấy to lớn". Này Sāriputta, chớ có hiểu như
vậy. Vì trái táo thời ấy giống với trái táo hiện tại. Này Sāriputta, trong khi
Ta sống chỉ ăn một trái táo, thân thể của Ta trở thành hết sức ốm yếu. Vì Ta ăn
quá ít, tay chân Ta trở thành như những cọng cỏ hay những đốt cây leo khô héo.
Vì Ta ăn quá ít, bàn trôn của Ta trở thành như móng chân con lạc đà. Vì Ta ăn
quá ít, các xương sống phô bày của Ta giống như một chuỗi banh. Vì Ta ăn quá
ít, các xương sườn gầy mòn của Ta giống như rui cột nhà sàn hư nát. Vì ta ăn quá
ít, nên con ngươi của Ta long lanh nằm sâu thẳm trong lỗ con mắt, giống như ánh
nước long lanh nằm sâu thẳm trong một giếng nước thâm sâu. Vì Ta ăn quá ít, da
đầu Ta trở thành nhăn nheo khô cằn như trái bí trắng và đắng bị cắt trước khi
chín, bị cơn gió nóng làm cho nhăn nheo khô cằn. Này Sāriputta, nếu Ta nghĩ:
"Ta hãy sờ da bụng", chính xương sống bị Ta nắm lấy. Nếu Ta nghĩ:
"Ta hãy sờ xương sống", thì chính da bụng bị Ta nắm lấy. Vì Ta ăn quá
ít, nên này Sāriputta, da bụng của Ta bám chặt xương sống. Này Sāriputta, nếu
Ta nghĩ: "Ta đi đại tiện hay đi tiểu tiện", thì Ta ngã quỵ, úp mặt
xuống đất, vì Ta ăn quá ít. Này Sāriputta, nếu Ta muốn thoa dịu thân Ta, lấy
tay xoa bóp chân tay, thì này Sāriputta, trong khi Ta lấy tay xoa bóp chân tay,
các lông tóc hư mục rụng khỏi thân Ta, vì Ta ăn quá ít.
53. Này Sāriputta, lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn có những
chủ thuyết như sau, có những kiến giải như sau: "Sự thanh tịnh đạt được
nhờ món ăn".
Họ nói: "Chúng ta sống nhờ đậu xanh"...
54. "Chúng ta sống nhờ vừng mè"...
55. "Chúng ta sống nhờ hột gạo", và họ ăn hột gạo,
họ ăn hột gạo nghiền thành bột, họ uống nước gạo, và họ ăn hột gạo dưới nhiều
hình thức. Này Sāriputta, Ta tự xưng Ta sống chỉ ăn một hột gạo. Này Sāriputta,
có thể các Người nghĩ như sau: "Hột gạo thời ấy to lớn". Này
Sāriputta, chớ có hiểu như vậy. Vì hột gạo thời ấy giống với hột gạo hiện tại.
Này Sāriputta, trong khi Ta chỉ sống ăn một hột gạo, thân thể của Ta trở thành
hết sức ốm yếu. Vì Ta ăn quá ít, tay chân Ta trở thành như những cọng cỏ hay
những đốt cây leo khô héo. Vì Ta ăn quá ít, bàn trôn của Ta trở thành như móng
chân con lạc đà. Vì Ta ăn quá ít, các xương sống phô bày của Ta giống như một
chuỗi banh. Vì Ta ăn quá ít, các xương sườn gầy mòn của Ta giống như rui cột
nhà sàn hư nát. Vì ta ăn quá ít, nên con ngươi của Ta long lanh nằm sâu thẳm
trong lỗ con mắt, giống như ánh nước long lanh nằm sâu thẳm trong một giếng
nước thâm sâu. Vì Ta ăn quá ít, da đầu Ta trở thành nhăn nheo khô cằn như trái
bí trắng và đắng bị cắt trước khi chín, bị cơn gió nóng làm cho nhăn nheo khô
cằn. Này Sāriputta, nếu Ta nghĩ: "Ta hãy sờ da bụng", chính xương
sống bị Ta nắm lấy. Nếu Ta nghĩ: "Ta hãy sờ xương sống", thì chính da
bụng bị Ta nắm lấy. Vì Ta ăn quá ít, nên này Sāriputta, da bụng của Ta bám chặt
xương sống. Này Sāriputta, nếu Ta nghĩ: "Ta đi đại tiện hay đi tiểu
tiện", thì Ta ngã quỵ, úp mặt xuống đất, vì Ta ăn quá ít. Này Sāriputta,
nếu Ta muốn thoa dịu thân Ta, lấy tay xoa bóp chân tay, thì này Sāriputta,
trong khi Ta lấy tay xoa bóp chân tay, các lông tóc hư mục rụng khỏi thân Ta,
vì Ta ăn quá ít.
56. Này Sāriputta, dầu Ta có theo cử chỉ như vậy, theo hành
lộ như vậy, theo khổ hạnh như vậy, Ta cũng không chứng được các pháp thượng
nhân, không có tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh. Vì sao vậy? Vì với những
phương tiện ấy, không chứng được pháp thượng nhân với Thánh trí tuệ. Chính
Thánh trí tuệ này chứng được thuộc về bậc Thánh, có khả năng hướng thượng, có
thể dẫn người thực hành diệt tận khổ đau.
57. Này Sāriputta, lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn có những
chủ thuyết như sau, có những kiến giải như sau: "Sự thanh tịnh chứng đạt
được nhờ luân hồi". Này Sāriputta, thật không dễ gì tìm được sự luân hồi
mà xưa kia Ta không trải qua trong một thời gian khá dài, trừ phi với các vị
Tịnh cư thiên (Suddhāvāsa). Này Sāriputta, nếu Ta luân hồi tại Tịnh cư thiên,
thời Ta đã không trở lại đời này nữa.
58. Này Sāriputta, lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn có những
chủ thuyết như sau, có những kiến giải như sau: "Sự thanh tịnh chứng đạt
được nhờ sanh khởi". Này Sāriputta, thật không dễ gì tìm được sự sanh khởi
mà xưa kia Ta không trải qua trong một thời gian khá dài, trừ phi với các vị
Tịnh cư thiên. Này Sāriputta, nếu Ta sanh khởi tại Tịnh cư thiên, thời Ta đã
không trở lại đời này nữa.
59. Này Sāriputta, lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn có những
chủ thuyết như sau, có những kiến giải như sau: "Sự thanh tịnh chứng đạt
được nhờ an trú". Này Sāriputta, thật không dễ gì tìm được sự an trú mà
xưa kia Ta không trải qua trong một thời gian khá dài, trừ phi với các vị Tịnh
cư thiên. Này Sāriputta, nếu Ta an trú tại Tịnh cư thiên, thì Ta đã không trở
lại đời này nữa.
60. Này Sāriputta, lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn có những
chủ thuyết như sau, có những kiến giải như sau: "Sự thanh tịnh chứng đạt
được nhờ tế tự". Này Sāriputta, thật không dễ gì tìm được sự tế tự mà xưa
kia Ta không làm trong một thời gian khá dài, khi Ta là vị vua Sát-đế-lỵ có làm
lễ quán đảnh, hay làm vị Bà-la-môn giàu có.
61. Này Sāriputta, lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn có những
chủ thuyết như sau, có những kiến giải như sau: "Sự thanh tịnh chứng đạt
được nhờ thờ lửa". Này Sāriputta, thật không dễ gì tìm được sự thờ lửa mà
xưa kia Ta không làm trong một thời gian khá dài, khi Ta là vị vua Sát-đế-lỵ có
làm lễ quán đảnh, hay làm vị Bà-la-môn giàu có.
62. Này Sāriputta, lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn có những
chủ thuyết như sau, có những kiến giải như sau: "Khi một thiếu niên còn
trẻ tuổi, tóc đen nhánh, huyết khí sung mãn, trong tuổi thanh xuân, người ấy
thành tựu trí tuệ biện tài tối thượng. Nhưng khi người ấy già cả, niên cao, lạp
lớn, đã đến tuổi trưởng thượng, đã đi đến đoạn cuối cuộc đời, khi đã tám mươi,
chín mươi hay một trăm tuổi, khi ấy trí tuệ biện tài tối thượng ấy bị đoạn
trừ". Này Sāriputta, chớ có quan niệm như vậy. Này Sāriputta, nay Ta đã
già, niên cao, lạp lớn, đã đến tuổi trưởng thượng, đã đi dến đoạn cuối cuộc
đời, tuổi Ta nay đã đến tám mươi. Này Sāriputta, ở đây Ta có bốn vị đệ tử, tuổi
thọ đến một trăm, đã sống một trăm tuổi, thành tựu chánh niệm đệ nhất, thành
tựu chuyên tâm đệ nhất, thành tựu tinh cần đệ nhất và đầy đủ trí tuệ biện tài
tối thượng. Này Sāriputta, ví như một người bắn cung thiện xảo, có huấn luyện,
khéo tay, thuần thục, với một mũi tên nhẹ, có thể dễ dàng bắn ngang qua bóng
một cây Tāla. Cũng vậy, những vị này với chánh niệm đệ nhất như vậy, được thành
tựu trí tuệ biện tài tối thượng như vậy, nếu những vị này hỏi Ta nhiều lần một
câu hỏi về Bốn Niệm xứ, và nếu Ta, được hỏi nhiều lần như vậy, phải giải thích
cho họ hiểu và nếu họ được Ta giải thích như vậy, có thể hiểu như đã giải
thích, và nếu họ không hỏi Ta về những vấn đề phụ thuộc và các vấn đề khác, trừ
khi ăn, uống, nhai, nếm, trừ khi đi đại tiện, tiểu tiện, trừ khi ngủ để lấy lại
sức. Này Sāriputta, dầu vậy, sự thuyết pháp của Như Lai cũng chưa hoàn tất, sự
giải thích cú pháp của Như Lai cũng chưa hoàn tất, sự trả lời các câu hỏi của
Như Lai cũng chưa hoàn tất, khi mà bốn đệ tử của Ta, tuổi thọ đã đến một trăm
tuổi, đã sống đến một trăm tuổi, đã từ trần sau một trăm tuổi. Này Sāriputta,
nếu ông có gánh Ta trên giường đi chỗ này chỗ kia, thật sự trí tuệ biện tài của
Như Lai không có gì thay đổi.
63. Này Sāriputta, những ai nói một cách chân chánh sẽ nói
như sau: "Một vị hữu tình không bị si chi phối, đã sanh ra ở đời vì lợi
ích, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì
hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người". Vị ấy sẽ nói về Ta một
cách chân chánh như sau: "Một vị hữu tình không bị si chi phối, đã sanh ra
ở đời vì lợi ích, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì
lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người".
64. Lúc bấy giờ Tôn-giả Nāgasamāla đứng sau lưng Thế Tôn và
quạt cho Ngài. Tôn-giả Nāgasamāla bạch Thế Tôn:
- Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, bạch
Thế Tôn! Sau khi nghe pháp môn này, lông tóc con dựng ngược. Bạch Thế Tôn, pháp
môn này tên gọi là gì?
- Này Nāgasamāla, do vậy pháp môn này gọi là "Pháp môn
Lông tóc dựng ngược". Ông hãy như vậy thọ trì.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy, Tôn-giả Nāgasamāla hoan hỷ,
tín thọ lời dạy của Thế Tôn.
No comments:
Post a Comment