Wednesday, September 2, 2015

MN 44 – Tiểu Kinh Phương Quảng

MN 44 – Tiểu Kinh Phương Quảng (Cūḷavedallasutta)

1. Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Rājagaha (Vương Xá), tai Veḷuvana (Trúc Lâm), chỗ Kalandakanivāpa. Rồi nam cư-sĩ Visākha đến chỗ Tỷ-kheo ni Dhammadinnā ở, sau khi đến, đảnh lễ Tỷ-kheo ni Dhammadinnā rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, nam cư-sĩ Visākha thưa với Tỷ-kheo ni Dhammadinnā:
(Tự thân)
2. - Thưa Ni-sư, tự thân, tự thân, (Sakkāya), được gọi là như vậy. Thưa Ni-sư, Thế Tôn gọi tự thân là như thế nào?
- Hiền-giả Visākha, Thế Tôn gọi năm thủ uẩn là tự thân, tức là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn và thức thủ uẩn. Hiền-giả Visākha, năm thủ uẩn này, Thế Tôn gọi là tự thân.
3. - Lành thay, thưa Ni-sư.
Nam cư-sĩ Visākha hoan hỷ, tín thọ lời Tỷ-kheo ni Dhammadinnā nói, rồi hỏi Tỷ-kheo ni Dhammadinnā thêm một câu hỏi nữa:
- Tự thân tập khởi, tự thân tập khởi, thưa Ni-sư, được gọi là như vậy. Thưa Ni-sư, Thế Tôn gọi tự thân tập khởi (Sakkāya-samudaya) là như thế nào?
- Hiền-giả Visākha, khát ái này đưa đến tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia, tức là dục ái, hữu ái và phi hữu ái. Hiền-giả Visākha, khát ái này, Thế Tôn gọi là tự thân tập khởi.
4. - Tự thân diệt, tự thân diệt, thưa Ni-sư, được gọi là như vậy. Thế Tôn gọi tự thân diệt là như thế nào?
- Hiền-giả Visākha, sự đoạn diệt, không tham đắm, không có dư tàn của khát ái ấy, sự xả ly, sự vất bỏ, sự giải thoát, sự vô chấp. Hiền-giả Visākha, sự đoạn diệt này, Thế Tôn gọi là tự thân diệt.
5. - Thưa Ni-sư, tự thân diệt đạo, tự thân diệt đạo, được gọi là như vậy. Thưa Ni-sư, Thế Tôn gọi tự thân diệt đạo là như thế nào?
- Hiền-giả Visākha, Con đường Thánh tám ngành này, Thế Tôn gọi là tự thân diệt đạo, tức là Chánh Tri kiến, Chánh Tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh Tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
6. – Thưa Ni-sư, thủ này tức là năm thủ uẩn kia hay thủ này khác với năm thủ uẩn?
- Không phải, Hiền-giả Visākha. Thủ này tức là năm thủ uẩn kia, thủ này không khác với năm thủ uẩn kia, Hiền-giả Visākha, phàm có dục tham đối với năm thủ uẩn, tức là (chấp) thủ đối với chúng ở đây vậy.
(Thân kiến)
7. - Thưa Ni-sư, thế nào là thân kiến?
- Ở đây, Hiền-giả Visākha, kẻ vô văn phàm phu không đến yết kiến các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không đến yết kiến các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân,
1)        xem sắc là tự ngã
2)        hay xem tự ngã là có sắc,
3)        hay xem sắc là trong tự ngã
4)        hay xem tự ngã là trong sắc;
xem thọ là tự ngã, hay xem tự ngã là có thọ, hay xem thọ là trong tự ngã, hay xem tự ngã là trong thọ;
xem tưởng là tự ngã, hay xem tự ngã là có tưởng, hay xem tưởng là trong tự ngã, hay xem tự ngã là trong tưởng;
xem hành là tự ngã, xem tự ngã là có hành, hay xem hành là trong tự ngã, hay xem tự ngã là trong hành;
xem thức là tự ngã, hay xem tự ngã là có thức, hay xem thức là trong tự ngã, hay xem tự ngã là trong thức.
Như vậy, Hiền-giả Visākha, là thân kiến.
8. - Thưa Ni-sư, thế nào là không phải thân kiến?
- Ở đây, Hiền-giả Visākha, vị Ða văn Thánh đệ tử đến yết kiến các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, đến yết kiến các bậc Chân nhân, thuần thục pháp các bậc Chân nhân, tu tập pháp các bậc Chân nhân,
1)     không xem sắc là tự ngã,
2)     không xem tự ngã là có sắc,
3)     không xem sắc là trong tự ngã,
4)     không xem tự ngã là trong sắc;
không xem thọ là tự ngã, không xem tự ngã là có thọ, không xem thọ là trong tự ngã, không xem tự ngã là trong thọ;
không xem tưởng là tự ngã, không xem tự ngã là có tưởng, không xem tưởng là trong tự ngã, không xem tự ngã là trong tưởng;
không xem các hành là tự ngã, không xem tự ngã là có các hành, không xem các hành là trong tự ngã, không xem tự ngã là trong các hành;
không xem thức là tự ngã, không xem tự ngã là có thức, không xem thức là trong tự ngã, không xem tự ngã là trong thức.
Như vậy, Hiền-giả Visākha, là không có thân kiến.
(Bát chánh đạo)
9. - Thưa Ni-sư, thế nào là Thánh đạo Tám ngành?
- Hiền-giả Visākha, đây là Thánh đạo Tám ngành, tức là Chánh Tri kiến, Chánh Tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh Tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
10. - Thưa Ni-sư, Thánh đạo Tám ngành này là hữu vi hay vô vi?
- Hiền-giả Visākha, Thánh đạo Tám ngành này là hữu vi.
11. - Thưa Ni-sư, ba uẩn được Thánh đạo Tám ngành thâu nhiếp hay Thánh đạo Tám ngành được ba uẩn thâu nhiếp?
- Hiền-giả Visākha, ba uẩn không bị Thánh đạo Tám ngành thâu nhiếp; Hiền-giả Visākha, Thánh đạo Tám ngành bị ba uẩn thâu nhiếp. Hiền-giả Visākha,
1)     Chánh ngữ, Chánh nghiệp và Chánh mạng, những pháp này được thâu nhiếp trong giới uẩn.
2)     Chánh Tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định, những pháp này được thâu nhiếp trong định uẩn.
3)     Chánh Tri kiến và Chánh tư duy, những pháp này được thâu nhiếp trong tuệ uẩn
(Ðịnh)
12. – Thưa Ni-sư thế nào là định, thế nào là định tướng, thế nào là định tư cụ, thế nào là định tu tập?
- Hiền-giả Visākha,
1)     nhất tâm là định,
2)     Bốn Niệm Xứ là định tướng,
3)     Bốn Tinh cần là định tư cụ,
4)     sự luyện tập, sự tu tập, sự tái tu tập của những pháp ấy là định tu tập ở đây vậy.
(Hành)
13. - Thưa Ni-sư, có bao nhiêu hành?
- Hiền-giả, có ba loại hành này:
1)     thân hành,
2)     khẩu hành,
3)     và tâm hành.
14. - Thưa Ni-sư, thế nào là thân hành, thế nào là khẩu hành, thế nào là tâm hành?
1)     Thở vô, thở ra, Hiền-giả Visākha, là thân hành,
2)     tầm tứkhẩu hành,
3)     tưởng và thọtâm hành.
15. – Thưa Ni-sư, vì sao thở vô thở ra là thân hành, vì sao tầm tứ là khẩu hành, vì sao tưởng và thọ là tâm hành?
1)     Thở vô, thở ra, Hiền-giả Visākha, thuộc về thân, những pháp này lệ thuộc với thân, nên thở vô thở ra thuộc về thân hành.
2)     Hiền-giả Visākha, trước phải tầm và tứ rồi sau mới phát lời nói, nên tầm tứ thuộc về khẩu hành.
3)     Tưởng và thọtâm sở, các pháp này lệ thuộc với tâm, nên tưởng và thọ thuộc về tâm hành.
(Diệt định)
16. - Thưa Ni-sư, như thế nào là chứng nhập Diệt thọ tưởng định?
- Hiền-giả Visākha, Tỷ-kheo chứng nhập Diệt thọ tưởng định, vị ấy không nghĩ rằng: "Tôi sẽ chứng nhập Diệt thọ tưởng định", hay "Tôi đang chứng nhập Diệt thọ tưởng định" hay "Tôi đã chứng nhập Diệt thọ tưởng định". Vì rằng, tâm của vị này trước đã được tu tập như vậy nên đưa đến trạng thái như vậy.
17. - Thưa Ni-sư, Tỷ-kheo chứng nhập Diệt thọ tưởng định, những pháp gì diệt trước, thân hành, hay khẩu hành, hay tâm hành?
- Hiền-giả Visākha, vị Tỷ-kheo chứng nhập Diệt thọ tưởng định, khẩu hành diệt trước, rồi đến thân hành, rồi đến tâm hành.
18. - Thưa Ni-sư, làm thế nào xuất khởi Diệt thọ tưởng định?
- Hiền-giả Visākha, vị Tỷ-kheo xuất khởi Diệt thọ tưởng định, không có nghĩ rằng: "Tôi sẽ xuất khởi Diệt thọ tưởng định", hay "Tôi đang xuất khởi Diệt thọ tưởng định", hay "Tôi đã xuất khởi Diệt thọ tưởng định". Vì rằng tâm của vị này trước đã tu tập như vậy nên đưa đến trạng thái như vậy.
19. - Thưa Ni-sư, Tỷ-kheo xuất khởi Diệt thọ tưởng định, những pháp nào khởi lên trước, thân hành, hay khẩu hành hay tâm hành?
- Hiền-giả Visākha, Tỷ-kheo xuất khởi Diệt thọ tưởng định, tâm hành khởi lên trước nhất, rồi đến thân hành, rồi đến khẩu hành.
20. - Thưa Ni-sư, khi Tỷ-kheo xuất khởi Diệt thọ tưởng định, vị ấy cảm giác những xúc nào?
- Hiền-giả Visākha, khi Tỷ-kheo xuất khởi Diệt thọ tưởng định, vị ấy cảm giác ba loại xúc: không xúc, vô tướng xúc, vô nguyện xúc.
21. - Thưa Ni-sư, khi Tỷ-kheo xuất khởi Diệt thọ tưởng định, tâm của vị ấy thiên về gì, hướng về gì, khuynh hướng về gì?
- Hiền-giả Visākha, khi Tỷ-kheo xuất khởi Diệt thọ tưởng định, tâm của vị ấy thiên về độc cư, hướng về độc cư, khuynh hướng về độc cư.
(Thọ)
22. - Thưa Ni-sư, có bao nhiêu thọ?
- Hiền-giả Visākha, có ba thọ này, lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ.
23. - Thưa Ni-sư, thế nào là lạc thọ, thế nào là khổ thọ, thế nào là bất khổ bất lạc thọ?
1)     Hiền-giả Visākha, cái gì được cảm thọ bởi thân hay tâm, một cách khoái lạc, khoái cảm, như vậy là lạc thọ.
2)     Hiền-giả Visākha, cái gì được cảm thọ bởi thân hay tâm, một cách đau khổ, không khoái cảm, như vậy là khổ thọ.
3)     Hiền-giả Visākha, cái gì được cảm thọ bởi thân hay tâm không khoái cảm, không khoái cảm như vậy là bất khổ bất lạc thọ.
24. – Thưa Ni-sư, đối với lạc thọ, cái gì lạc, cái gì khổ? Ðối với khổ thọ, cái gì khổ, cái gì lạc? Ðối với bất khổ bất lạc thọ, cái gì lạc, cái gì khổ?
1)     Hiền-giả Visākha, đối với lạc thọ, cái gì trú là lạc, cái gì biến hoại là khổ.
2)     Ðối với khổ thọ, cái gì trú là khổ, cái gì biến hoại là lạc.
3)     Ðối với bất khổ bất lạc thọ, có trí là lạc, vô trí là khổ.
(Tùy miên)
25. - Thưa Ni-sư, trong lạc thọ, có tùy miên gì tồn tại; trong khổ thọ, có tùy miên gì tồn tại; trong bất khổ bất lạc thọ, có tùy miên gì tồn tại?
1)     Hiền-giả Visākha, trong lạc thọ, tham tùy miên tồn tại;
2)     trong khổ thọ, sân tùy miên tồn tại;
3)     tất cả bất khổ bất lạc thọ, vô minh tùy miên tồn tại.
26. - Thưa Ni-sư, có phải trong tất cả lạc thọ, tham tùy miên tồn tại; trong tất cả khổ thọ, sân tùy miên tồn tại; trong tất cả bất khổ bất lạc thọ, vô minh tùy miên tồn tại?
1)     Hiền-giả Visākha, không phải trong tất cả lạc thọ, tham tùy miên tồn tại;
2)     không phải trong tất cả khổ thọ, sân tùy miên tồn tại;
3)     không phải trong tất cả bất khổ bất lạc thọ, vô minh tùy miên tồn tại.
27. - Thưa Ni-sư, trong lạc thọ, cái gì phải từ bỏ. Trong khổ thọ, cái gì phải từ bỏ. Trong bất khổ bất lạc thọ, cái gì phải từ bỏ?
1)     Hiền-giả Visākha, trong lạc thọ, tham tùy miên phải từ bỏ.
2)     Trong khổ thọ, sân tùy miên phải từ bỏ.
3)     Trong bất khổ bất lạc thọ, vô minh tùy miên phải từ bỏ.
28. - Thưa Ni-sư, có phải trong tất cả lạc thọ, tham tùy miên phải từ bỏ. Trong tất cả khổ thọ, sân tùy miên phải từ bỏ. Trong tất cả bất khổ bất lạc thọ, vô minh tùy miên phải từ bỏ?
- Hiền-giả Visākha, không phải trong tất cả lạc thọ, tham tùy miên phải từ bỏ; trong tất cả khổ thọ, sân tùy miên phải từ bỏ; trong tất cả bất khổ bất lạc thọ, vô minh tùy miên phải từ bỏ.
Ở đây, Hiền-giả Visākha, vị Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm và tứ. Do vậy tham đã được từ bỏ, không còn tham tùy miên tồn tại ở đây.
Ở đây, Hiền-giả Visākha, vị Tỷ-kheo suy tư như sau: “Chắc chắn ta sẽ chứng và an trú trong trú xứ mà nay các vị Thánh đang an trú”. Vì muốn phát nguyện hướng đến các cảnh giải thoát vô thượng, do ước nguyện ấy, khởi lên ưu tư. Do vậy, sân được từ bỏ, không còn sân tùy miên tồn tại ở đây.
Ở đây, Hiền-giả Visākha, vị Tỷ-kheo xả lạc và xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Do vậy vô minh đã được từ bỏ, không còn vô minh tùy miên tồn tại ở đây.
(Ðối tác)
29. - Thưa Ni-sư, lạc thọ lấy gì làm tương đương?
- Hiền-giả Visākha, lạc thọ lấy khổ thọ làm tương đương.
30. - Thưa Ni-sư, khổ thọ lấy gì làm tương đương?
- Hiền-giả Visākha, khổ thọ lấy lạc thọ làm tương đương.
31. - Thưa Ni-sư, bất khổ bất lạc thọ lấy gì làm tương đương?
- Hiền-giả Visākha, bất khổ bất lạc thọ lấy vô minh làm tương đương.
32. - Thưa Ni-sư, vô minh lấy gì làm tương đương?
- Hiền-giả Visākha, vô minh lấy minh làm tương đương.
33. - Thưa Ni-sư, minh lấy gì làm tương đương?
- Hiền-giả Visākha, minh lấy giải thoát làm tương đương.
34. - Thưa Ni-sư, giải thoát lấy gì làm tương đương?
- Hiền-giả Visākha, giải thoát lấy Niết-bàn (Nibbāna) làm tương đương?
35. - Thưa Ni-sư, Niết-bàn lấy gì làm tương đương?
- Hiền-giả Visākha, câu hỏi đi quá xa, vượt ra ngoài giới hạn câu trả lời. Hiền-giả Visākha, phạm hạnh là để thể nhập vào Niết-bàn, để vượt qua đến Niết-bàn, để đạt cứu cánh Niết-bàn.
Hiền-giả Visākha, nếu Hiền-giả muốn, hãy đến chỗ Thế Tôn ở, và hỏi ý nghĩa này. Và Thế Tôn trả lời cho Hiền-giả như thế nào, hãy như vậy thọ trì.
(Kết luận)
36. Rồi nam cư-sĩ Visākha hoan hỷ, tín thọ lời Tỷ-kheo ni Dhammadinnā giảng, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Tỷ-kheo ni Dhammadinnā, thân bên phải hướng về phía Tỷ-kheo ni rồi từ biệt.
Và nam cư-sĩ Visākha đi đến chỗ Thế Tôn ở. Sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, nam cư-sĩ Visākha thuật lại cho Thế Tôn tất cả câu chuyện đàm đạo với Tỷ-kheo ni Dhammadinnā. Khi nghe nói vậy, Thế Tôn nói với nam cư-sĩ Visākha:
- Này Visākha, Tỷ-kheo ni Dhammadinnā là bậc Hiền-trí! Này Visākha, Tỷ-kheo ni Dhammadinnā là bậc Ðại tuệ. Này Visākha, nếu ông hỏi Ta ý nghĩa ấy, Ta cũng trả lời như Tỷ-kheo ni Dhammadinnā đã trả lời. ông đối với nghĩa này, hãy như vậy thọ trì.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Nam cư-sĩ Visākha hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.

No comments:

Post a Comment