MN 91 – Kinh Brahmāyu (Brahmāyusutta)
1. Như vầy tôi nghe. Một
thời Thế Tôn du hành ở Videha, cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị.
2. Lúc bấy giờ, Bà-la-môn
Brahmāyu trú tại Mithilā
(Di-tát-la) già yếu, niên cao, lạp lớn, đã đến tuổi trưởng thượng, đã gần mãn
cuộc đời, tuổi đã đến một trăm hai mươi, một vị đọc tụng Thánh điển, chấp trì
chú thuật, tinh thông ba tập Vedā, với tự vựng, lễ nghi, ngữ nguyên và thứ năm
là các cổ truyện, thông hiểu từ ngữ và văn phạm, thâm hiểu Thuận
thế luận và Ðại nhân tướng.
3. Bà-la-môn Brahmāyu có
nghe: "Sa-môn Gotama là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Sakya
(Thích-ca) đang du hành ở Videha, cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm
vị".
Tiếng đồn tốt đẹp sau
đây được truyền đi về Tôn-giả Gotama: "Ðây là Thế Tôn,
bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.
Với thắng trí, Ngài tự thân chứng ngộ thế giới này cùng với
Thiên giới, Phạm thiên giới, cùng với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, các loài Trời và
loài Người.
Khi đã chứng ngộ, Ngài còn tuyên thuyết điều Ngài đã chứng ngộ.
Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, văn nghĩa đầy đủ, Ngài
truyền dạy Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, trong sạch.
Tốt đẹp thay sự chiêm ngưỡng một vị A-la-hán như vậy".
4. Lúc bấy giờ đệ tử của
Bà-la-môn Brahmāyu là thanh niên Uttara, một vị đọc tụng Thánh điển, chấp trì chú
thuật, tinh thông ba tập Vedā, với tự vựng, lễ nghi, ngữ nguyên và thứ năm là
các cổ truyện, thông hiểu từ ngữ và văn phạm, thâm hiểu Thuận thế luận và Ðại
nhân tướng. Rồi Bà-la-môn Brahmāyu bảo thanh niên Uttara:
- Này Uttara thân mến,
Sa-môn Gotama là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Sakya (Thích-ca) đang du hành ở
Videha, cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị. Tiếng đồn tốt đẹp sau
đây được truyền đi về Tôn-giả Gotama: "Ðây là Thế Tôn,
bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Với thắng trí,
Ngài tự thân chứng ngộ thế giới này cùng với Thiên giới, Phạm thiên giới, cùng
với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, các loài Trời và loài Người.
Khi đã chứng ngộ, Ngài còn tuyên thuyết điều Ngài đã chứng ngộ.
Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, văn nghĩa đầy đủ, Ngài
truyền dạy Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, trong sạch.
Tốt đẹp thay sự chiêm ngưỡng một vị A-la-hán như vậy.
Uttara thân mến, hãy đi đến Sa-môn Gotama, sau khi đến hãy tìm
hiểu Sa-môn Gotama, có phải là Tôn-giả Gotama như tiếng đã đồn, hay là không
phải, hay là Tôn-giả Gotama như thế này, hay là không phải như thế này. Chính
nhờ ông mà chúng ta sẽ biết về Tôn-giả Gotama.
5. - Thưa Tôn-giả, làm
sao tôi biết Tôn-giả Gotama có phải là Tôn-giả Gotama như tiếng đã đồn, hay là
không phải, hay là Tôn-giả Gotama như thế này, hay là không phải như thế này?
- Này Uttara thân mến,
theo Thánh điển của chúng ta được truyền lại về ba mươi hai Ðại nhân
tướng, những ai có ba mươi
hai tướng ấy sẽ chọn một trong hai con
đường, không có con đường nào khác:
1)
nếu là tại gia, sẽ thành vị Chuyển luân Thánh
vương chinh phục mọi quốc độ, đầy đủ bảy món báu. Bảy món báu này là xe báu,
voi báu, ngựa báu, châu báu, ngọc nữ báu, cư-sĩ báu và thứ bảy là tướng quân
báu. Và vị này có hơn một ngàn con trai, là những vị anh hùng, oai phong lẫm
liệt, chiến thắng ngoại quân. Vị này sống thống lãnh quả đất cùng tận cho đến
đại dương, và trị vì với Chánh pháp, không dùng gậy, không dùng đao.
2)
Nếu vị này xuất gia, từ bỏ gia đình, sống
không gia đình, vị này sẽ chứng quả A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, quét sạch mê lầm
ở đời. Này Uttara thân mến, ta đã cho con chú thuật, con đã nhận những chú
thuật ấy.
6. - Thưa vâng, Tôn-giả.
Thanh niên Uttara vâng
đáp Bà-la-môn Brahmāyu, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Bà-la-môn Brahmāyu, giữ
thân hướng về phía hữu, rồi ra đi du hành đến Thế Tôn ở Videha, tuần tự du hành
đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên những lời chào đón hỏi thăm với Thế Tôn,
sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên.
Ngồi xuống một bên, thanh niên Uttara tìm xem ba mươi hai Ðại nhân tướng trên
thân Thế Tôn. Thanh niên Uttara thấy trên thân Thế Tôn phần
lớn ba mươi hai Ðại nhân tướng, trừ hai tướng. Ðối với hai Ðại nhân tướng ấy,
nghi hoặc sanh, do dự sanh, chưa được thỏa mãn, chưa được hài lòng, tức là
tướng mã âm tàng và tướng lưỡi rộng dài.
Rồi Thế Tôn nghĩ rằng: "Thanh niên Uttara này thấy ở nơi Ta
phần lớn ba mươi hai Ðại nhân tướng, trừ hai tướng. Ðối với hai Ðại nhân tướng
ấy, nghi hoặc sanh, do dự sanh, chưa được thỏa mãn, chưa được hài lòng, tức là
tướng mã âm tàng và tướng lưỡi rộng dài".
7. Thế Tôn liền dùng thần
thông khiến thanh niên Uttara thấy được tướng mã âm tàng của Thế Tôn. Và Thế
Tôn le lưỡi, rờ đến, liếm đến hai lỗ tai; rờ đến, liếm đến hai lỗ mũi, và dùng
lưỡi che khắp cả vùng trán.
8. Rồi thanh niên Uttara
suy nghĩ: "Sa-môn Gotama có đầy đủ ba mươi hai Ðại nhân tướng. Vậy ta
hãy theo sát Sa-môn Gotama để dò xem các uy nghi (của Ngài)". Rồi thanh niên Uttara trong bảy tháng theo sát
Thế Tôn như bóng không bao giờ rời hình.
Rồi thanh niên Uttara,
sau bảy tháng, khởi hành đi đến Mithilā ở Videha, tuần tự du hành đi đến Mithilā,
rồi đi đến Bà-la-môn Brahmāyu, sau khi đến, đảnh lễ Bà-la-môn Brahmāyu rồi ngồi
xuống một bên. Bà-la-môn Brahmāyu nói với thanh niên Uttara đang ngồi một bên:
- Này Uttara thân mến, có phải tiếng đồn về Tôn-giả Gotama là
đúng như vậy, không phải khác, có phải Tôn-giả Gotama là như vậy, không phải
khác?
9. - Tiếng
đồn về Tôn-giả Gotama là đúng như vậy, không phải khác, Tôn-giả Gotama là như
vậy, không phải khác. Và Tôn-giả Gotama ấy có đầy đủ ba mươi hai Ðại nhân
tướng.
1)
Tôn-giả Gotama có lòng bàn chân bằng phẳng;
đây là Ðại nhân tướng của Ðại nhân Tôn-giả Gotama. (1)
2)
Dưới hai bàn chân Tôn-giả Gotama, có hiện ra
hình bánh xe, với ngàn tăm xe, với trục xe vành xe, với các bộ phận hoàn toàn
đầy đủ; đây là Ðại nhân tướng của Ðại nhân Tôn-giả Gotama. (2)
3)
Tôn-giả Gotama có gót chân thon dài; đây là
Ðại nhân tướng của Ðại nhân Tôn-giả Gotama. (3)
4)
Tôn-giả Gotama có ngón tay, ngón chân dài; đây
là Ðại nhân tướng của Ðại nhân Tôn-giả Gotama. (4)
5)
Tôn-giả Gotama có tay chân mềm mại; đây là Ðại
nhân tướng của Ðại nhân Tôn-giả Gotama. (5)
6)
Tôn-giả Gotama tay chân có màn da lưới; đây là
Ðại nhân tướng của Ðại nhân Tôn-giả Gotama. (6)
7)
Tôn-giả Gotama có mắt cá tròn như con sò; đây
là Ðại nhân tướng của Ðại nhân Tôn-giả Gotama. (7)
8)
Tôn-giả Gotama có ống chân to như con dê rừng;
đây là Ðại nhân tướng của Ðại nhân Tôn-giả Gotama. (8)
9)
Tôn-giả Gotama đứng thẳng, không cong lưng
xuống có thể rờ đầu gối với hai bàn tay; đây là Ðại nhân tướng của Ðại nhân
Tôn-giả Gotama. (9)
10)
Tôn-giả Gotama có tướng mã âm tàng; đây là Ðại
nhân tướng của Ðại nhân Tôn-giả Gotama. (10)
11)
Tôn-giả Gotama có màu da như đồng, màu sắc như
vàng; đây là Ðại nhân tướng của Ðại nhân Tôn-giả Gotama. (11)
12)
Tôn-giả Gotama có da trơn mướt khiến bụi không
có thể bám dính vào; đây là Ðại nhân tướng của Ðại nhân Tôn-giả Gotama. (12)
13)
Tôn-giả Gotama có lông da mọc từng lỗ lông
một, mỗi lỗ chân lông có một lông; đây là Ðại nhân tướng của Ðại nhân Tôn-giả
Gotama. (13)
14)
Tôn-giả Gotama có lông mọc xoáy tròn thẳng
lên, mỗi sợi lông đều vậy, màu xanh đậm như thuốc bôi mắt, xoáy lên từng xoáy
tròn nhỏ, và xoáy về hướng mặt. (14)
15)
Tôn-giả Gotama có thân hình cao thẳng; đây là
Ðại nhân tướng của Ðại nhân Tôn-giả Gotama. (15)
16)
Tôn-giả Gotama có bảy chỗ tròn đầy; đây là Ðại
nhân tướng của Ðại nhân Tôn-giả Gotama. (16)
17)
Tôn-giả Gotama có nửa thân trước như thân con
sư tử; đây là Ðại nhân tướng của Ðại nhân Tôn-giả Gotama. (17)
18)
Tôn-giả Gotama không có lõm khuyết xuống giữa
hai vai; đây là Ðại nhân tướng của Ðại nhân Tôn-giả Gotama. (18)
19)
Tôn-giả Gotama có thân thể cân đối như cây
bàng; bề cao thân ngang bằng bề dài hai tay sải rộng, bề dài hai tay sải rộng
ngang bằng bề cao của thân; đây là Ðại nhân tướng của Ðại nhân Tôn-giả Gotama.
(19)
20)
Tôn-giả Gotama có bán thân trên vuông tròn;
đây là Ðại nhân tướng của Ðại nhân Tôn-giả Gotama. (20)
21)
Tôn-giả Gotama có vị giác hết sức sắc bén; đây
là Ðại nhân tướng của Ðại nhân Tôn-giả Gotama. (21)
22)
Tôn-giả Gotama có quai hàm như con sư tử; đây
là Ðại nhân tướng của Ðại nhân Tôn-giả Gotama. (22)
23)
Tôn-giả Gotama có bốn mươi răng; đây là Ðại
nhân tướng của Ðại nhân Tôn-giả Gotama. (23)
24)
Tôn-giả Gotama có răng đều đặn; đây là Ðại
nhân tướng của Ðại nhân Tôn-giả Gotama. (24)
25)
Tôn-giả Gotama có răng không khuyết hở; đây là
Ðại nhân tướng của Ðại nhân Tôn-giả Gotama. (25)
26)
Tôn-giả Gotama có răng cửa trơn láng; đây là
Ðại nhân tướng của Ðại nhân Tôn-giả Gotama. (26)
27)
Tôn-giả Gotama có tướng lưỡi rộng dài; đây là
Ðại nhân tướng của Ðại nhân Tôn-giả Gotama. (27)
28)
Tôn-giả Gotama có giọng nói tuyệt diệu như
tiếng chim ca-lăng- tần-già (Karavīka); đây là Ðại nhân tướng của Ðại nhân
Tôn-giả Gotama. (28)
29)
Tôn-giả Gotama có hai mắt màu xanh đậm; đây là
Ðại nhân tướng của Ðại nhân Tôn-giả Gotama. (29)
30)
Tôn-giả Gotama có lông mi con bò cái; đây là
Ðại nhân tướng của Ðại nhân Tôn-giả Gotama. (30)
31)
Tôn-giả Gotama, giữa hai lông mày, có sợi lông
trắng mọc lên mịn màng như bông nhẹ; đây là Ðại nhân tướng của Ðại nhân Tôn-giả
Gotama. (31)
32)
Tôn-giả Gotama có nhục kế trên đầu; đây là Ðại
nhân tướng của Ðại nhân Tôn-giả Gotama. (32)
10. Khi Tôn-giả Gotama đi,
1)
Ngài bước chân mặt trước,
2)
không đặt chân xuống quá xa,
3)
không rút chân lên quá gần,
4)
không bước quá mau,
5)
không bước quá chậm,
6)
khi đi đầu gối không va chạm đầu gối,
7)
khi đi mắt cá không va chạm mắt cá;
8)
Ngài đi không co bắp vế lên,
9)
không duỗi bắp vế xuống,
10) không
đưa bắp vế vào trong,
11) không
đưa bắp vế ra ngoài.
12) Khi
đi Tôn-giả Gotama chỉ di động phần thân ở dưới, và không dùng toàn thân lực.
13) Khi
ngó quanh, Tôn-giả Gotama ngó quanh với toàn thân.
14) Khi
đi không có ngưỡng mặt lên, không cúi mặt xuống, không có ngó quanh, và chỉ ngó
xuống khoảng một tầm (yugamattam, bề dài một cái cày).
15) Xa
hơn, tri kiến được mở rộng (anavatam: không bị che đậy).
11. Khi đi vào nhà, (Tôn-giả Gotama)
1)
không ngửa thân về phía sau,
2)
không cúi thân về phía trước,
3)
không đưa thân về phía trong,
4)
không đưa thân về phía ngoài;
5)
vị ấy quay lưng không quá xa ghế ngồi, không quá
gần ghế ngồi;
6)
ngồi trên ghế, không nắm chặt thành ghế, không
gieo thân ngồi xuống ghế.
12. Khi ngồi trong nhà.
1)
Ngài không rung tay,
2)
không rung chân,
3)
không ngồi tréo đầu gối với nhau,
4)
tréo mắt cá với nhau,
5)
không ngồi tay chống cằm.
6)
Khi ngồi trong nhà, không có sợ hãi, không có
run rẩy, không có dao động, không có hoảng hốt.
Như vậy Tôn-giả Gotama ngồi, không sợ hãi, không run sợ, không dao động, không
hoảng hốt, lông tóc không dựng ngược, Thiền tịnh độc cư.
13. Khi nhận nước để rửa bát,
1)
không chúc bình bát lên,
2)
không chúc bình bát xuống,
3)
không xoay bình bát vào phía trong,
4)
không xoay bình bát ra phía ngoài,
5)
nhận nước không quá ít, không quá nhiều.
6)
Ngài rửa bát, không sanh tiếng động, rửa bát
không xoay tròn bình bát, không đặt bình bát xuống đất rồi rửa tay, khi hai tay
rửa xong, bát cũng rửa xong, khi bát rửa xong, tay cũng rửa xong.
7)
Ngài đổ nước bình bát không quá xa, không quá
gần, và không vẩy nước cùng khắp.
14. Khi Ngài nhận cơm,
1) không
chúc bình bát lên,
2) không
chúc bình bát xuống,
3) không
xoay bình bát vào phía trong,
4) không
xoay bình bát ra phía ngoài,
5) nhận
cơm không quá ít, không quá nhiều.
6) Ngài
ăn đồ ăn vừa phải (với cơm), không có bỏ miếng cơm, chỉ lựa miếng thức ăn.
7) Tôn-giả
Gotama đưa miếng cơm quanh miệng hai ba lần rồi mới nuốt, không hột cơm nào
được vào trong thân không bị nghiến nát, và không một hột cơm nào còn lại trong
miệng trước khi ăn miếng cơm khác.
8) Tôn-giả
Gotama không thưởng
thức vị ăn khi ăn đồ ăn,
không
thưởng thức vì lòng tham vị.
9) Tôn-giả
Gotama ăn đồ ăn có đầy đủ tám đức tánh,
1. không
phải để vui đùa,
2. không
phải để đam mê,
3. không
phải để trang sức,
4. không
phải để tự làm đẹp mình,
5. mà
chỉ để thân này được sống lâu và được bảo dưỡng,
6. để
(thân này) khỏi bị thương hại,
7. để
hỗ trợ Phạm hạnh,
8. nghĩ
rằng: "Như vậy, Ta diệt trừ các cảm thọ cũ và không cho
khởi lên các cảm thọ mới, và Ta sẽ không lỗi lầm, sống được an ổn".
15. Ngài ăn xong lấy nước rửa bát,
1)
không chúc bình bát lên,
2)
không chúc bình bát xuống,
3)
không xoay bình bát vào phía trong,
4)
không xoay bình bát ra phía ngoài,
5)
nhận nước không quá ít, không quá nhiều.
6)
Ngài rửa bát không sanh tiếng động, rửa bát
không xoay tròn bình bát, không có đặt bình bát xuống đất rồi rửa tay, khi hai
tay rửa xong, bình bát cũng rửa xong, khi bình bát rửa xong, hai tay cũng rửa
xong.
7)
Ngài đổ nước bình bát, không quá xa, không quá
gần, không vẩy nước cùng khắp.
16. Khi ăn xong,
1)
Ngài đặt bình bát xuống đất,
2)
không quá xa,
3)
không quá gần,
4)
không phải không nghĩ đến bình bát,
5)
cũng không quá lo cho bình bát.
17. Khi ăn xong,
1)
Ngài ngồi im lặng một lát nhưng không để quá thì
giờ, nói lời tùy hỷ (công đức).
2)
Ngài nói lời tùy hỷ (công đức),
3)
không chỉ trích bữa ăn ấy,
4)
không mong bữa ăn khác; trái lại,
5)
Ngài với pháp thoại khai thị hội chúng ấy, khích
lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ.
6)
Ngài sau khi với pháp thoại khai thị hội chúng
ấy, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra
đi.
18. Ngài đi không quá mau, không quá chậm. Ngài đi không phải (như muốn)
lánh xa hội chúng ấy.
19. Tôn-giả Gotama đắp y
1)
không kéo lên quá cao trên thân,
2)
không kéo xuống quá thấp,
3)
không dính sát vào thân,
4)
không có lơi ra khỏi thân,
5)
gió thổi không thoát y khỏi thân Tôn-giả Gotama;
6)
bụi nhớp không dính trên thân Tôn-giả Gotama.
20. Ði đến tu viện,
1)
Ngài ngồi trên ghế đã soạn sẵn,
2)
sau khi ngồi liền rửa chân,
3)
và Tôn-giả Gotama không sống chú tâm vào công
việc làm đẹp hai chân.
4)
Ngài ngồi kiết-già, lưng thẳng, và đặt niệm
trước mặt.
5)
Ngài không nghĩ đến tự hại, không nghĩ đến hại
người, không nghĩ đến hại cả hai.
6)
Tôn-giả Gotama ngồi, tâm hướng đến lợi mình, lợi
người, lợi cả hai, lợi toàn thế giới.
21. Ði đến tu viện,
1)
Ngài thuyết pháp cho hội chúng,
2)
không tán dương hội chúng ấy,
3)
không chỉ trích hội chúng ấy,
4)
trái lại với pháp thoại khai thị hội chúng ấy,
5)
khích lệ làm cho phấn khởi,
6)
làm cho hoan hỷ.
7)
Tiếng nói thoát ra từ miệng Tôn-giả Gotama có tám
đức tánh:
1.
lưu loát,
2.
dễ hiểu,
3.
dịu ngọt,
4.
nghe rõ ràng,
5.
sung mãn,
6.
phân minh,
7.
thâm sâu
8.
và vang động.
Khi Tôn-giả Gotama giải thích cho hội chúng với tiếng nói của
mình, tiếng nói không vượt ra khỏi hội chúng.
Hội chúng sau khi được Tôn-giả Gotama khai thị, khích lệ, làm cho
phấn khởi, làm cho thích thú, làm cho hoan hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy, và ra đi
vẫn quay nhìn lại, không muốn rời bỏ.
22.
1)
Chúng con thấy Tôn-giả Gotama đi.
2)
Chúng con thấy (Tôn-giả) đứng.
3)
Chúng con thấy (Tôn-giả) ngồi im lặng trong nhà.
4)
Chúng con thấy (Tôn-giả) ăn trong nhà.
5)
Chúng con thấy (Tôn-giả) sau khi ăn xong, ngồi
im lặng.
6)
Chúng con thấy (Tôn-giả) sau khi ăn xong, nói
lời tùy hỷ (công đức).
7)
Chúng con thấy (Tôn-giả) đi trở về tu viện.
8)
Chúng con thấy (Tôn-giả) đi đến tu viện ngồi im
lặng.
9)
Chúng con thấy (Tôn-giả) đi đến tu viện thuyết
pháp cho hội chúng.
Như vậy, và như vậy là Tôn-giả
Gotama ấy và lại còn nhiều hơn như vậy nữa.
23. Khi nghe nói vậy, Bà-la-môn
Brahmāyu từ chỗ ngồi đứng dậy,
đắp thượng y vào một bên vai, chắp tay hướng đến Thế Tôn, và ba lần nói lời cảm
hứng sau đây:
- Ðảnh lễ Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác! Ðảnh lễ Thế
Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác! Ðảnh lễ Thế Tôn, bậc A la hán, Chánh Ðẳng
Giác! Có thể tại một chỗ nào, thời gian nào, chúng tôi sẽ đi đến gặp Tôn-giả
Gotama ấy. Có lẽ sẽ có một cuộc nói chuyện.
24. Rồi Thế
Tôn, tuần tự du hành ở Videha và đi đến Mithilā. Ở đấy, Thế Tôn trú tại rừng xoài Makhādeva
(hay Maghadeva) ở Mithilā.
Các Bà-la-môn, gia chủ ở
Mithilā nghe nói: "Sa-môn Gotama là
Thích tử, xuất gia từ dòng họ Thích-ca, đang du hành ở Videha, cùng với đại chúng
Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị đã đến Mithilā và hiện trú ở rừng xoài Makhādeva,
tại Mithilā. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Tôn-giả Gotama:
"Sa-môn Gotama là Thích tử, xuất gia
từ dòng họ Sakya (Thích-ca) đang du hành ở Videha, cùng với đại chúng Tỷ-kheo
khoảng năm trăm vị".
Tiếng đồn tốt đẹp sau
đây được truyền đi về Tôn-giả Gotama: "Ðây là Thế Tôn,
bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Với thắng trí,
Ngài tự thân chứng ngộ thế giới này cùng với Thiên giới, Phạm thiên giới, cùng
với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, các loài Trời và loài Người. Khi đã chứng ngộ,
Ngài còn tuyên thuyết điều Ngài đã chứng ngộ. Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung
thiện, hậu thiện, văn nghĩa đầy đủ, Ngài tuyên dạy Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ,
trong sạch. Tốt đẹp thay sự chiêm ngưỡng một vị A-la-hán như vậy!"
25. Rồi các Bà-la-môn, gia
chủ ở Mithilā đi đến chỗ Thế Tôn, sau khi đến, một số đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi
xuống một bên; một số nói lên những lời chào đón hỏi thăm Thế Tôn, sau khi nói
lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên; một số chắp
tay hướng vái Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; một số xưng danh họ rồi ngồi
xuống một bên; một số im lặng rồi ngồi xuống một bên.
26. Bà-la-môn Brahmāyu
nghe như sau: "Sa-môn Gotama là Thích tử, xuất gia từ
dòng họ Thích-ca, đã đến Mithilā và trú ở Mithilā tại rừng xoài Makhādeva". Rồi Bà-la-môn Brahmāyu đi đến rừng xoài Makhādeva
cùng với một số đông thanh niên Bà-la-môn. Khi đến không xa rừng xoài bao
nhiêu, Bà-la-môn Brahmāyu khởi lên ý nghĩ: "Thật không thích đáng
cho ta đến yết kiến Sa-môn Gotama mà không báo trước". Rồi Bà-la-môn Brahmāyu bảo một người
thanh niên:
- Này thanh niên, hãy đi đến Sa-môn Gotama, sau khi đến hãy nhân
danh ta hỏi thăm Sa-môn Gotama có ít bệnh, ít não, khinh an, có mạnh khỏe, lạc
trú: "Thưa
Tôn-giả Gotama, Bà-la-môn Brahmāyu hỏi thăm Tôn-giả Gotama có ít bệnh, ít não,
khinh an, có mạnh khỏe, lạc trú và thưa như sau: "Thưa
Tôn-giả Gotama, Bà-la-môn Brahmāyu già yếu, niên cao, lạp lớn, đã đến tuổi
trưởng thượng, đã gần mãn cuộc đời, tuổi đã đến một trăm hai mươi, một vị đọc
tụng Thánh điển, chấp trì chú thuật, tinh thông ba tập Vedā, với tự vựng, lễ
nghi, ngữ nguyên và thứ năm là các cổ truyện, thông hiểu từ ngữ và văn phạm,
thâm hiểu Thuận thế luận và Ðại nhân tướng. Thưa Tôn-giả, đối với các
Bà-la-môn, gia chủ sống tại Mithilā, Bà-la-môn Brahmāyu được xem là tối thượng
về phương diện tài sản, Bà-la-môn Brahmāyu được xem là tối thượng về phương diện
chú thuật (manta), Bà-la-môn Brahmāyu được xem là tối thượng về phương diện
tuổi tác và danh vọng. Vị ấy muốn yết kiến Tôn-giả Gotama".
- Thưa vâng, Tôn-giả.
Thanh niên ấy vâng đáp
Bà-la-môn Brahmāyu, đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói lên những lời chào đón hỏi
thăm Thế Tôn, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền đứng
một bên. Ðứng một bên, thanh niên ấy bạch Thế Tôn:
- Thưa Tôn-giả Gotama,
Bà-la-môn Brahmāyu hỏi thăm Tôn-giả Gotama có ít bệnh, ít não, khinh an, có
mạnh khỏe, lạc trú: "Thưa Tôn-giả Gotama, Bà-la-môn Brahmāyu già
yếu, niên cao, lạp lớn, đã đến tuổi trưởng thượng, đã gần mãn cuộc đời, tuổi đã
đến một trăm hai mươi, một vị đọc tụng Thánh điển, chấp trì chú thuật, tinh
thông ba tập Vedā, với tự vựng, lễ nghi, ngữ nguyên và thứ năm là các cổ
truyện, thông hiểu từ ngữ và văn phạm, thâm hiểu Thuận thế luận và Ðại nhân
tướng.
Thưa Tôn-giả, đối với các Bà-la-môn, gia chủ sống tại Mithilā,
Bà-la-môn Brahmāyu được xem là tối thượng về phương diện tài sản, Bà-la-môn
Brahmāyu được xem là tối thượng về phương diện chú thuật (manta), Bà-la-môn
Brahmāyu được xem là tối thượng về phương diện tuổi tác và danh vọng.
Vị ấy muốn yết kiến Tôn-giả Gotama".
- Này thanh niên, nay
Bà-la-môn Brahmāyu hãy làm những gì vị ấy nghĩ là hợp thời.
27. Rồi vị thanh niên ấy
đi đến Bà-la-môn Brahmāyu, sau khi đến, liền thưa với Bà-la-môn Brahmāyu:
- Tôn-giả đã được Sa-môn
Gotama chấp nhận. Nay Tôn-giả hãy làm những gì Tôn-giả nghĩ là hợp thời.
Rồi Bà-la-môn Brahmāyu
đi đến Thế Tôn. Hội chúng ấy thấy Bà-la-môn Brahmāyu từ xa đi đến, sau khi thấy
liền tránh chỗ hai bên vì vị này được nhiều người biết đến và có
danh vọng. Bà-la-môn Brahmāyu nói
với hội chúng ấy:
- Thôi vừa rồi, các Tôn-giả,
hãy ngồi trên chỗ ngồi của mình. Ở đây, tôi sẽ ngồi gần Sa-môn Gotama.
28. Rồi Bà-la-môn Brahmāyu
đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên những lời chào đón hỏi thăm Thế Tôn, sau
khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Ngồi
xuống một bên, Bà-la-môn Brahmāyu tìm xem ba mươi hai Ðại nhân tướng trên thân
Thế Tôn. Bà-la-môn Brahmāyu
thấy phần lớn ba mươi hai Ðại nhân tướng trên thân Thế Tôn, trừ hai tướng, đối
với hai Ðại nhân tướng ấy, nghi hoặc sanh, do dự sanh, chưa được thỏa mãn, chưa
được hài lòng, tức là tướng mã âm tàng và tướng lưỡi rộng
dài.
29. Rồi Bà-la-môn Brahmāyu
nói với Thế Tôn những bài kệ sau đây:
Tôn-giả Gotama,
Ba hai Ðại nhân tướng,
Con được nghe nói đến,
Hai tướng con không thấy.
Ba hai Ðại nhân tướng,
Con được nghe nói đến,
Hai tướng con không thấy.
Trên thân của Tôn-giả,
Tôn-giả, mã âm tàng,
Bậc tối thượng loài Người,
Ngài có hay không có?
Hay là tướng nữ nhân?
Hay lưỡi Ngài quá ngắn?
Hay lưỡi Ngài rộng dài?
Tôn-giả, mã âm tàng,
Bậc tối thượng loài Người,
Ngài có hay không có?
Hay là tướng nữ nhân?
Hay lưỡi Ngài quá ngắn?
Hay lưỡi Ngài rộng dài?
Ðể con như thật biết,
Hãy đưa lưỡi Ngài ra,
Mong bậc Ðại Tiên Nhân,
Trừ nghi cho chúng con.
Hãy đưa lưỡi Ngài ra,
Mong bậc Ðại Tiên Nhân,
Trừ nghi cho chúng con.
Vì an lạc hiện tại,
Vì hạnh phúc tương lai,
Chúng con xin được phép,
Hỏi điều muốn được biết.
Vì hạnh phúc tương lai,
Chúng con xin được phép,
Hỏi điều muốn được biết.
30. Rồi Thế Tôn suy
nghĩ: "Bà-la-môn Brahmāyu này thấy trên thân Ta phần lớn ba mươi
hai Ðại nhân tướng, trừ hai tướng, đối với hai Ðại nhân tướng ấy, nghi hoặc
sanh, do dự sanh, chưa được thỏa mãn, chưa được hài lòng, tức là mã tướng âm
tàng và tướng lưỡi rộng dài".
Thế Tôn liền dùng thần
thông khiến Bà-la-môn Brahmāyu thấy được
tướng mã âm tàng của Thế Tôn, và Thế
Tôn le lưỡi, rờ đến, liếm đến hai lỗ tai; rờ đến liếm đến hai lỗ mũi, và dùng
lưỡi che khắp cả vùng trán.
31. Rồi Thế Tôn trả lời
Bà-la-môn Brahmāyu với bài kệ:
Ba hai Ðại nhân tướng,
Ông đã được nghe đến,
Ðều có trên thân Ta,
Hiền giả, chớ có nghi!
Ông đã được nghe đến,
Ðều có trên thân Ta,
Hiền giả, chớ có nghi!
Ðiều cần biết, đã biết,
Ðiều cần tu, đã tu,
Ðiều cần trừ, đã trừ,
Do vậy, Ta là Phật,
(Hỡi này Bà-la-môn!)
Ðiều cần tu, đã tu,
Ðiều cần trừ, đã trừ,
Do vậy, Ta là Phật,
(Hỡi này Bà-la-môn!)
Vì an lạc hiện tại,
Vì hạnh phúc tương lai,
Ông được phép vấn hỏi,
Những điều ông muốn biết.
Vì hạnh phúc tương lai,
Ông được phép vấn hỏi,
Những điều ông muốn biết.
32. Rồi Bà-la-môn Brahmāyu
suy nghĩ như sau: "Nay Sa-môn Gotama đã cho phép ta. Vậy ta nên
hỏi Sa-môn Gotama về mục đích hiện tại hay tương lai".
Rồi Bà-la-môn Brahmāyu
suy nghĩ: "Ta đã thiện xảo về mục đích hiện tại và các
người khác hỏi ta về mục đích hiện tại. Vậy ta hãy hỏi Sa-môn Gotama về mục
đích tương lai". Rồi Bà-la-môn Brahmāyu
dùng bài kệ thưa Thế Tôn:
Thế nào (là)
Bà-la-môn?
Thế nào thông Vệ-đà?
Thế nào là ba minh?
Thế nào gọi cát tường?
Thế nào thông Vệ-đà?
Thế nào là ba minh?
Thế nào gọi cát tường?
Thế nào là Ứng
Cúng?
Thế nào bậc Viên mãn?
Thế nào bậc Mâu-ni?
Thế nào gọi Phật-đà?
Thế nào bậc Viên mãn?
Thế nào bậc Mâu-ni?
Thế nào gọi Phật-đà?
33.
Rồi Thế Tôn dùng bài kệ trả lời Bà-la-môn Brahmāyu:
Ai biết được đời trước,
Thấy thiện thú, ác thú,
Ðoạn tận được tái sanh,
Thắng trí được viên thành,
Vị ấy gọi Mâu-ni.
Thấy thiện thú, ác thú,
Ðoạn tận được tái sanh,
Thắng trí được viên thành,
Vị ấy gọi Mâu-ni.
Ai biết tâm thanh tịnh,
Giải thoát gọi tham dục,
Sanh tử đều đoạn tận,
Phạm hạnh được viên thành,
Thông đạt nhứt thiết pháp,
Vị ấy xưng Phật-đà.
Giải thoát gọi tham dục,
Sanh tử đều đoạn tận,
Phạm hạnh được viên thành,
Thông đạt nhứt thiết pháp,
Vị ấy xưng Phật-đà.
34.
Khi được nghe vậy, Bà-la-môn Brahmāyu từ chỗ
ngồi đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, cúi đầu xuống dưới chân Thế Tôn,
dùng miệng hôn xung quanh chân Thế Tôn, lấy tay rờ xung quanh và tự xưng danh:
-
Thưa Tôn-giả Gotama, con là Bà-la-môn Brahmāyu.
35.
Và hội chúng ấy tâm tư trở thành kinh dị, vi diệu: "Thật
vi diệu thay! Thật hy hữu thay, đại uy lực, đại thần lực của vị Sa-môn đã khiến
cho Bà-la-môn Brahmāyu này, với danh tiếng, danh vọng như vậy, lại hạ mình tối
đa như vậy". Rồi Thế Tôn nói với Bà-la-môn Brahmāyu:
- Thôi vừa rồi,
Bà-la-môn, hãy đứng dậy. Ông hãy ngồi trên ghế của ông, vì tâm của ông đã hoan
hỷ đối với Ta.
Rồi
Bà-la-môn Brahmāyu, sau khi đứng dậy, liền ngồi trên ghế của mình.
36.
Rồi Thế Tôn thứ lớp thuyết pháp cho Bà-la-môn Brahmāyu,
1)
thuyết về bố thí,
2)
thuyết về trì giới,
3)
thuyết về các cõi Trời,
4)
trình bày sự nguy hiểm, sự
hạ liệt, sự nhiễm ô của dục lạc
5)
và sự lợi ích của xuất ly.
Khi
Thế Tôn biết tâm của Bà-la-môn Brahmāyu đã
sẵn sàng, đã nhu thuận, không còn chướng ngại, được phấn khởi, được tín thành, liền thuyết pháp mà chư Phật đã đề cao, tức là Khổ, Tập, Diệt, Ðạo.
Cũng
như tấm vải thuần bạch, được gột rửa các vết đen, sẽ rất dễ thấm màu nhuộm,
cũng vậy, chính tại chỗ ngồi này, pháp nhãn xa trần ly cấu khởi lên trong tâm
Bà-la-môn Brahmāyu: "Phàm pháp gì được tập
khởi lên, tất cả các pháp ấy đều bị biến hoại". Bà-la-môn Brahmāyu thấy pháp, chứng pháp, ngộ pháp, thể nhập vào
pháp, nghi ngờ tiêu trừ, do dự
diệt tận, chứng được tự tin, không y cứ nơi người khác đối với đạo pháp của đức
Bổn sư. Bà-la-môn
Brahmāyu liền bạch Thế Tôn:
37.
- Thật vi diệu thay, Tôn-giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn-giả Gotama! Như
người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che
kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những
ai có mắt có thể thấy sắc; cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn-giả Gotama dùng
nhiều phương tiện trình bày, giải thích.
Con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo. Mong Tôn-giả Gotama nhận
con làm đệ tử, từ nay cho đến mạng chung, con xin trọn đời quy ngưỡng! Mong
Tôn-giả Gotama ngày mai nhận lời mời của con đến dùng cơm với chúng Tỷ-kheo!
Thế
Tôn im lặng nhận lời. Rồi Bà-la-môn Brahmāyu khi được biết Thế Tôn đã nhận lời,
liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra
đi.
38.
Bà-la-môn Brahmāyu sau khi đêm ấy đã mãn, sau khi đã sửa soạn tại trú-xá của
mình các món ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm, liền báo thì giờ cho Thế Tôn:
"Tôn-giả Gotama, nay đã
đến giờ, cơm đã sẵn sàng". Rồi Thế Tôn buổi sáng đắp y, lấy y bát, đi
đến trú-xá của Bà-la-môn Brahmāyu, sau khi đến liền ngồi trên chỗ đã soạn sẵn
với chúng Tỷ-kheo. Bà-la-môn Brahmāyu tự tay làm cho chúng Tỷ-kheo với đức Phật
là vị cầm đầu, thỏa mãn bằng những món ăn thượng vị loại cứng và loại mềm.
39.
Rồi Thế Tôn sau bảy ngày liền khởi sự du hành ở Videha. Sau khi Thế Tôn ra đi
không bao lâu, Bà-la-môn Brahmāyu mệnh chung. Một số đông Tỷ-kheo đi đến Thế
Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên,
các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
- Bà-la-môn Brahmāyu đã
mệnh chung. Sanh thú của vị ấy là gì, tương lai tái sanh thế nào?
-
Này các Tỷ-kheo, Bà-la-môn Brahmāyu là bậc hiền triết. Vị ấy theo Pháp đúng với
Chánh pháp, không có phiền nhiễu Ta với những kiện cáo về Chánh pháp
(Dhammādhikaraṇaṃ). Này các Tỷ-kheo,
Bà-la-môn Brahmāyu sau khi đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, từ chỗ
ấy nhập Niết-bàn, không có trở lui đời này nữa.
Thế
Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
No comments:
Post a Comment