Saturday, August 8, 2015

KTC-02. Chương Bốn Pháp - Kinh Không Sợ Hãi [có người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết]

KTC-02. Chương Bốn Pháp - Kinh Không Sợ Hãi


(4. 4. 4. 4) Không Sợ Hãi: Abhayasuttaṃ (184)
1. Rồi Bà-la-môn Jāṇussonī (hay Jāṇussoṇi) đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên.
2. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Jāṇussonī bạch Thế Tôn:
- Thưa Tôn-giả Gotama, tôi nói như sau, tôi thấy như sau: "Không có một ai bản tánh bị chết mà không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết".
- Này Bà-la-môn, có người bản tánh bị chết, sợ hãi, rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết. Nhưng này Bà-la-môn, có người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
3. Và này Bà-la-môn, thế nào là người bản tánh bị chết, sợ hãi, rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết?
Ở đây, này Bà-la-môn, có người
1)    không ly tham đối với các dục,
2)    không ly ham muốn,
3)    không ly luyến ái,
4)    không ly khát ái,
5)    không ly nhiệt não,
6)    không ly tham ái.
Rồi một chứng bệnh trầm trọng khởi lên cho người ấy.
Người ấy bị cảm thọ bởi chứng bệnh trầm trọng ấy, suy nghĩ như sau: "Thật sự các dục khả ái sẽ bỏ ta", hay "Ta sẽ từ bỏ các dục khả ái".
Người ấy sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh.
Này Bà-la-môn, đây là người bản tánh bị chết, sợ hãi, rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
4. Lại nữa, này Bà-la-môn, ở đây có người
1)    không ly tham đối với thân,
2)    không ly ham muốn,
3)    không ly luyến ái,
4)    không ly khát ái,
5)    không ly nhiệt não,
6)    không ly tham ái. 
Rồi một chứng bệnh trầm trọng khởi lên cho người ấy.
Người ấy bị cảm thọ bởi chứng bệnh trầm trọng ấy, suy nghĩ như sau: "Thật sự thân khả ái sẽ bỏ ta", hay "Ta sẽ từ bỏ thân khả ái".
Người ấy sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh.
Này Bà-la-môn, đây là người bản tánh bị chết, sợ hãi, rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
5. Lại nữa, này Bà-la-môn, ở đây có hạng người
1)    không làm điều lành,
2)    không làm điều thiện,
3)    không che chở kẻ sợ hãi,
4)    làm điều ác,
5)    làm điều hung bạo,
6)    làm điều phạm pháp.
Rồi một chứng bệnh trầm trọng khởi lên cho người ấy.
Người ấy bị cảm thọ bởi chứng bệnh trầm trọng ấy, suy nghĩ như sau: "Thật sự ta không làm điều lành, không làm điều thiện, không che chở kẻ sợ hãi, làm điều ác, làm điều hung bạo, làm điều phạm pháp".
Tại sanh thú nào mà những người không làm điều lành, không làm điều thiện, không che chở kẻ sợ hãi, làm điều ác, làm điều hung bạo, làm điều phạm pháp đi đến sau khi chết, ta đi đến sanh thú ấy.
Người ấy sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh.
Này Bà-la-môn, đây là người bản tánh bị chết, sợ hãi, rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
6. Lại nữa, này Bà-la-môn, ở đây có hạng người
1)    nghi ngờ,
2)    do dự,
3)    không đi đến kết luận đối với Diệu pháp.
Rồi một chứng bệnh trầm trọng khởi lên cho người ấy.
Người ấy bị cảm thọ bởi chứng bệnh trầm trọng ấy, suy nghĩ như sau: "Thật sự ta có nghi ngờ do dự, không đi đến kết luận đối với Diệu pháp".
Người ấy sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh.
Này Bà-la-môn, đây là người bản tánh bị chết, sợ hãi, rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
Này Bà-la-môn, đây là bốn hạng người bản tánh bị chết, sợ hãi, rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
7. Và này Bà-la-môn, thế nào là người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết?
Ở đây, này Bà-la-môn, có hạng người
1)    ly tham đối với các dục,
2)    ly ham muốn,
3)    ly luyến ái,
4)    ly khát ái,
5)    ly nhiệt não,
6)    ly tham ái.
Rồi một chứng bệnh trầm trọng khởi lên cho người ấy.
Người ấy bị cảm thọ bởi chứng bệnh trầm trọng ấy, suy nghĩ như sau: "Thật sự các dục khả ái sẽ bỏ ta", hay "Ta sẽ từ bỏ các dục khả ái".
Người ấy không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh.
Này Bà-la-môn, đây là người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
8. Lại nữa, này Bà-la-môn, ở đây có người
1)    ly tham đối với thân,
2)    ly ham muốn,
3)    ly luyến ái,
4)    ly khát ái,
5)    ly nhiệt não,
6)    ly tham ái.
Rồi một chứng bệnh trầm trọng khởi lên cho người ấy.
Người ấy bị cảm thọ bởi chứng bệnh trầm trọng ấy, suy nghĩ như sau: "Thật sự thân khả ái sẽ bỏ ta", hay "Ta sẽ từ bỏ thân khả ái".
Người ấy không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh.
Này Bà-la-môn, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
9. Lại nữa, này Bà-la-môn, ở đây có hạng người
1)    không làm ác,
2)    không làm điều hung bạo,
3)    không làm điều phạm pháp,
4)    làm điều lành,
5)    làm điều thiện,
6)    có che chở kẻ sợ hãi.
Rồi một chứng bệnh trầm trọng khởi lên cho người ấy.
Người ấy bị cảm thọ bởi chứng bệnh trầm trọng ấy, suy nghĩ như sau: "Thật sự ta không làm ác, không làm điều hung bạo, không làm điều phạm pháp, làm điều lành, làm điều thiện, có che chở kẻ sợ hãi. Tại sanh thú nào mà những người không làm điều ác, không làm điều hung bạo, không làm điều phạm pháp, làm điều lành, làm điều thiện, có che chở kẻ sợ hãi đi đến sau khi chết, ta đi đến sanh thú ấy".
Người ấy không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh.
Này Bà-la-môn, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
10. Lại nữa, này Bà-la-môn, ở đây có hạng người
1)    không có nghi ngờ,
2)    không có do dự,
3)    đi đến kết luận đối với Diệu pháp.
Rồi một chứng bệnh trầm trọng khởi lên cho người ấy.
Người ấy bị cảm thọ bởi chứng bệnh trầm trọng ấy, suy nghĩ như sau: "Thật sự ta không có nghi ngờ, không có do dự, đi đến kết luận đối với Diệu pháp".
Người ấy không có sầu muộn, không có than vãn, không có khóc lóc, không có đập ngực, không rơi vào bất tỉnh.
Này Bà-la-môn, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
Này Bà-la-môn, có bốn hạng người bản tánh bị chết, không có sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết

11. - Thật vi diệu thay, thưa Tôn-giả Gotama! Thật hy hữu thay, thưa Tôn-giả Gotama! Thưa Tôn-giả Gotama, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối, để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn-giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Con nay xin quy y Tôn-giả Gotama, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Tôn-giả Gotama nhận con làm đệ tử cư-sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.

No comments:

Post a Comment