Chướng Ngại, Triền
Cái: Āvaraṇanīvaraṇasuttaṃ (Kinh Tương Ưng Bộ - tập 5)
1. Nhân duyên ở
Sāvatthī.
2. - Có năm chướng ngại,
triền cái, này các Tỷ-kheo, làm uế nhiễm tâm, làm yếu ớt trí tuệ. Thế nào là năm?
3. Dục tham, này các Tỷ-kheo, là chướng
ngại, triền cái, làm uế nhiễm tâm, làm yếu ớt trí tuệ.
Sân, này các Tỷ-kheo, là chướng ngại, triền cái, làm uế nhiễm tâm,
làm yếu ớt trí tuệ.
Hôn trầm thụy miên, này các Tỷ-kheo, là chướng ngại, triền cái, làm uế nhiễm tâm,
làm yếu ớt trí tuệ.
Trạo hối, này các Tỷ-kheo, là chướng
ngại, triền cái, làm uế nhiễm tâm, làm yếu ớt trí tuệ.
Nghi hoặc, này các Tỷ-kheo, là chướng ngại, triền cái, làm uế nhiễm tâm,
làm yếu ớt trí tuệ.
4. Năm chướng ngại,
triền cái này, này các Tỷ-kheo, làm uế nhiễm tâm và làm yếu ớt trí tuệ.
5. Bảy giác chi này, này các Tỷ-kheo, không
phải là chướng ngại, triền cái, không làm uế nhiễm tâm, được tu tập, được làm cho sung mãn,
đưa đến chứng ngộ quả minh và giải thoát. Thế nào là bảy?
6. Niệm giác chi, này các Tỷ-kheo,
không phải là chướng ngại, triền cái, không làm uế nhiễm tâm, được tu tập, được
làm cho sung mãn, đưa đến chứng ngộ quả minh và giải thoát.
Trạch pháp giác chi, này các Tỷ-kheo, không phải là chướng ngại, triền cái, không làm
uế nhiễm tâm, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến chứng ngộ quả minh và
giải thoát.
Tinh tấn giác chi, này các Tỷ-kheo, không phải là chướng ngại, triền cái, không làm
uế nhiễm tâm, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến chứng ngộ quả minh và
giải thoát.
Hỷ giác chi, này các Tỷ-kheo, không phải là chướng ngại, triền cái, không làm
uế nhiễm tâm, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến chứng ngộ quả minh và
giải thoát.
Khinh an giác chi, này các Tỷ-kheo, không phải là chướng ngại, triền cái, không làm
uế nhiễm tâm, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến chứng ngộ quả minh và
giải thoát.
Định giác chi, này các Tỷ-kheo, không phải là chướng ngại, triền cái, không làm
uế nhiễm tâm, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến chứng ngộ quả minh và
giải thoát. Xả giác chi, này các Tỷ-kheo, không phải là chướng ngại, triền cái,
không làm uế nhiễm tâm, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến chứng ngộ
quả minh và giải thoát.
7. Bảy giác chi này,
này các Tỷ-kheo, không phải là chướng ngại, triền cái, không làm uế nhiễm tâm,
được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến chứng ngộ quả minh và giải thoát.
8.
Trong khi, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử lấy pháp làm đối tượng (aṭṭhiṃ katvā) tác ý, tập trung tất cả tâm ý (sabbaṃ cetaso samannāharitvā), lắng tai nghe pháp; trong khi ấy, năm triền cái không có hiện hữu trong vị ấy. Và bảy giác chi, trong khi ấy, nhờ tu tập, đi đến viên mãn.
9. Năm triền cái nào, trong khi ấy, không có hiện hữu? Dục tham triền cái, trong khi ấy, không có hiện hữu. Sân triền
cái, trong khi ấy, không có hiện hữu. Hôn trầm thụy miên triền cái, trong khi
ấy, không có hiện hữu. Trạo hối triền cái, trong khi ấy, không có hiện hữu.
Nghi hoặc triền cái, trong khi ấy, không có hiện hữu. Năm triền cái, trong khi
ấy, không có hiện hữu trong vị ấy.
10. Bảy giác chi nào, trong khi ấy, nhờ tu tập, đi
đến viên mãn? Niệm giác chi, trong khi ấy, nhờ tu
tập, đi đến viên mãn. Trạch pháp giác chi, trong khi ấy, nhờ tu tập, đi đến
viên mãn. Tinh tấn giác chi, trong khi ấy, nhờ tu tập, đi đến viên mãn. Hỷ giác
chi, trong khi ấy, nhờ tu tập, đi đến viên mãn. Khinh an giác chi, trong khi
ấy, nhờ tu tập, đi đến viên mãn. Định giác chi, trong khi ấy, nhờ tu tập, đi
đến viên mãn. Xả giác chi, trong khi ấy, nhờ tu tập, đi đến viên mãn.
11.
Trong khi, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử lấy pháp làm đối tượng tác ý, tập
trung tất cả tâm ý, lắng tai nghe pháp; trong khi ấy, năm triền cái không có
hiện hữu trong vị ấy. Bảy giác chi này, trong khi ấy, nhờ tu tập, đi đến viên
mãn.
No comments:
Post a Comment